Thách thức hội tụ kế toán quốc tế (p2)

Thảo luận trong 'Các quảng cáo khác' bắt đầu bởi huong tun, 4/3/16.

  1. huong tun

    huong tun Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    2/3/16
    Bài viết:
    0
    Hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực tới thực tiễn đầy thử thách, vẫn còn một khoảng cách nhất định để đạt được mục tiêu chung nhằm xây dựng chuẩn mực quốc tế đảm bảo cao. công đoạn đó là bài toán phức tạp và nan giải bởi chúng xuất phát từ rộng rãi nguyên do khác nhau về môi trường buôn bán, pháp lý và văn hóa trong mỗi quốc gia. bởi thế, xu thế hội tụ kế toán của 1 số quốc gia với thể thống nhất trong chuẩn mực nhưng chưa hoàn toàn nhất quán trong thực tế.
    [​IMG]
    2.3. Úc

    Úc đã với những bước chuẩn bị nhất định cho việc chuyển đổi từ CMKT Úc sang IAS/IFRS từ năm 2002 và Úc đã chính thức chuyển sang áp dụng IAS/IFRS từ ngày 01.01.2005. Úc là 1 trong các quốc gia thứ nhất áp dụng IAS/IFRS. Tuy nhiên, Hội đồng chuẩn mực kế toán của Úc (AASB) đã xem xét việc ban hành IAS/IFRS tại riêng quốc gia. Theo ấy, CMKT Úc đã với sự chỉnh sửa cho tương thích mang môi trường pháp lý và những đặc điểm riêng biệt để yêu thích sở hữu Úc. CMKT Úc không đơn giản là IAS/IFRS mà bản chất đã sở hữu sự thay đổi theo hình thức A-IAS/IFRS (IAS/IFRS đã được chuyển đổi theo Úc). Sự điều chỉnh của A-IAS/IFRS bao gồm những thay đổi trong việc lựa tìm được ban hành theo IAS/IFRS và bổ sung những hướng dẫn và thay đổi 1 số thuật ngữ khác so sở hữu IAS/IFRS. Chính sự điều chỉnh, bổ sung này dẫn đến A-IAS/IFRS không nhất quán với IAS/IFRS. Việc áp dụng IAS/IFRS theo phương cách trung lập A-IAS/IFRS của Úc đã tạo nên phổ biến khác biệt ko chỉ trong hệ thống CMKT mà ngay cả những công ty lúc áp dụng vào thực tế.

    Trong nghiên cứu về việc đo lường giá trị tối ưu, lựa tìm chính sách kế toán của hai quốc gia Anh và Úc, David Cairns et al. (2008) đã sử dụng mô hình 228 công ty tương ứng mỗi quốc gia 114 để đo lường trên BCTC những năm 2004 – 2006 mang 20 khoản mục. Nhìn chung kết quả cho thấy việc thực thi IAS/IFRS của Úc không với sự khác biệt giữa trước và sau khi áp dụng IAS/IFRS. ko kể ra, trong một nghiên cứu thực nghiệm của Tyrone Carlin, Nigel Finch (2008) nhằm xác định giá trị lợi thế thương mại được thực hiện bởi các doanh nghiệp Úc áp dụng theo IAS/IFRS trong hai năm 2006 và 2007. Mô hình nghiên cứu đã sử dụng BCTC của 50 doanh nghiệp niêm yết to nhất của Úc. Qua thực nghiệm cho thấy, mức độ những Dịch vụ kê khai thuế doanh nghiệp áp dụng nội dung về lợi thế thương mại trên bảng cân đối kế toán hầu hết ko thỏa mãn yêu cầu. Như vậy, CMKT của Úc hướng tới IAS/IFRS nhưng thực tế BCTC của những doanh nghiệp ko nhất quán. những doanh nghiệp không sẵn lòng thực hiện theo những đề nghị IAS/IFRS.

    Mặc dù Úc chấp nhận toàn bộ các chuẩn mực theo IAS/IFRS nhưng Úc vẫn có các điều chỉnh nhất định cho ưng ý có đặc điểm riêng của quốc gia. Việc làm CMKT quốc gia như Úc là một hướng tiếp cận riêng, thể hiện chính sách trung lập trong việc thực thi CMKT quốc tế

    2.4. Trung Quốc

    Bộ Tài chính (BTC) Trung Quốc bắt đầu thiết lập CMKT từ năm 1988. Cuối năm 1992, BTC đã phát triển chuẩn mực cơ bản của kế toán cho hoạt động doanh nghiệp (tương tự khuôn loại lý thuyết). Điều này đánh dấu sự kiện trong cải phương pháp kế toán của Trung Quốc, bãi bỏ hệ thống kế toán truyền thống và sử dụng chuẩn mực quốc tế. Sau đấy, khuôn loại lý thuyết ban hành năm 1992 được thay thế bởi 16 CMKT và những qui định khác như hệ thống kế toán cho hoạt động công ty (ASBE) ban hành 2001. Mục đích của ASBE là so sánh thông tin tài chính, hạch toán tách biệt giữa thuế và kế toán, chất lượng hội nhập mang thực hành kế toán được chấp nhận bởi quốc tế. Tuy nhiên, trước sức ép hội nhập kinh tế thế giới, Trung Quốc đã chấp nhận xây dựng hệ thống CMKT mới theo hướng hội tụ kế toán quốc tế trên cơ sở IAS/IFRS gồm 38 CMKT với hiệu lực từ ngày 1.1.2007. Việc chuyển đổi chuẩn mực Trung Quốc sắp có IAS/IFRS nhưng chuẩn mực mới chẳng hề dịch lại theo IAS/IFRS mặc dù vẫn dựa trên nền tảng, nguyên tắc cơ bản. Nhìn chung, xét về hệ thống chuẩn mực, CMKT Trung Quốc đã hình thành trên nền tảng của IAS/IFRS.

    Tuy nhiên, giữa CMKT Trung Quốc và IAS/IFRS với các điểm khác biệt rõ rệt, cụ thể CMKT Trung Quốc ko phát triển và áp dụng gần như giá trị tuyệt vời, yêu cầu công bố các bên liên quan được chỉnh sửa lại cũng như ko thực hiện đánh giá tổn thất tài sản. Trong nghiên cứu của Jean Jinghan Chen and Peng Cheng (2007), về mức độ hội tụ của CMKT Trung Quốc và IAS/IFRS trong thực tế đi tới kết luận rằng Trung Quốc chỉ hội tụ về hình thức vì CMKT Trung Quốc được che đậy bên ngoài với IAS/IFRS nhưng thực chất Trung Quốc vẫn áp dụng chính sách kế toán công ty. Trong nghiên cứu của Tymothy Doupnik, Hector Perera (2007) nhìn nhận rằng phương phương pháp tiếp cận của Trung Quốc với tính “đối phó” giữa IAS/IFRS và thực tế. cách tiếp cận này thực chất chỉ là hội tụ bên ngoài, được che đậy bởi hệ thống CMKT quốc tế nhưng thực tế Trung Quốc ko vận dụng theo các nguyên tắc chuẩn mực mà vẫn thực thi chính sách kế toán doanh nghiệp. Qua đó cho thấy, một thời gian dài Trung Quốc đã vận dụng “chiến thuật” nhằm thích ứng dần có các cải phương pháp trong hệ thống kế toán quốc gia. Bản chất thận trọng vẫn được chú ý trong việc thực thi chính sách kinh tế toàn cầu.

    Trước sức ép ngày càng gia tăng từ những tổ chức quốc tế, đặc trưng trong hội nghị nhóm các quốc gia lớn mạnh (G20) được tổ chức tại London tháng 4.2009, theo đó Trung Quốc buộc phải xây dựng lộ trình hội tụ gần như CMKT quốc tế. Trong báo cáo dự thảo của Ngân hàng thế giới được công bố tháng 10.2009 về lộ trình và tiếp tục hội tụ gần như giữa ASBE mang IAS/IFRS. Theo báo cáo, nhìn chung ASBE về cơ bản đã đáp ứng hội tụ CMKT quốc tế nhưng CMKT bắt buộc được hội tụ 1 bí quyết toàn diện và gần như. Đồng thời, ASBE cam kết giai đoạn chuyển đổi từ 2009 đến kết thúc 2011 và đã lên chương trình các nội dung cơ bản cho lộ trình hội tụ đầy đủ.

    vừa qua, BTC của Trung Quốc tuyên bố quốc gia này áp dụng toàn bộ theo IFRS nhưng mang 1 số chiếc trừ. Đồng thời BTC cho biết đa số những doanh nghiệp với qui mô lớn và vừa sẽ buộc phải áp dụng theo CMKT từ năm 2012.

    Nhìn chung, hội tụ kế toán quốc tế là hướng đi tích cực của những quốc gia trên thế giới. những ích lợi từ việc tiêu dùng ngôn ngữ kinh tế chung toàn cầu đã giải quyết được bài toán thống nhất thông tin trình bày trên BCTC của các quốc gia, đáp ứng xu hướng toàn cầu hóa kinh tế. đa dạng quốc gia và khu vực kinh tế thế giới đang hướng đến chuẩn mực quốc tế và tích cực ủng hộ, tham gia, chung tay góp sức trong việc thiết kế chuẩn mực quốc tế thành chuẩn mực toàn cầu uy tín cao. Tuy nhiên, viễn cảnh hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực tới thực tiễn là cả một giai đoạn Làm báo cáo tài chính đầy thử thách bởi thực trạng việc vận dụng chuẩn mực quốc tế vào chính những quốc gia và từng khu vực theo những phương pháp tiếp cận khác nhau, điển hình sở hữu khu vực kinh tế như EU áp dụng thống nhất IAS/IFRS nhưng từng chuẩn mực phải được thông qua tổ chức; mang quốc gia áp dụng nguyên bản IAS/IFRS như Úc nhưng có chỉnh sửa, bổ sung thể hiện chính sách trung lập trong giai đoạn thực thi; mang quốc gia áp dụng IAS/IFRS mang tính hình thức như Trung Quốc, được thể hiện bên ko kể là IAS/IFRS nhưng thực tế vẫn thực thi chế độ, chính sách kế toán doanh nghiệp; và lại mang quốc gia hình thành các “sức ép” về kinh tế, chính trị như Mỹ nhằm đạt tới sự hội tụ CMKT quốc tế nhưng “có điều kiện”. Mặc dù viễn cảnh hội tụ kế toán quốc tế còn phổ biến cản trở và Dịch vụ quyết toán thuế khó khăn cần hướng đến để đạt được mục tiêu chung nhưng hội tụ kế toán quốc tế là xu hướng tất yếu khách quan trong tiến trình quốc tế hóa kinh tế.
     

Chia sẻ trang này