Mặc dù có nguồn gốc lâu đời từ sự kết hợp giữa heavy metal và prog rock, thai nghén mạnh mẽ trong thập niên 80s, nhưng phải thực sự đến đầu thập niên 90s thì prog metal mới chính thức nở rộ và vươn tới mainstream. Bắt đầu bằng ba band flag-ship tiên phong cho thể loại - Queensryche, Dream Theater và Fates Warning, cho tới giữa và sau thập niên 90s thì hầu hết các prog band đều tạo ra phong cách riêng của mình. Một vài minh chứng như Opeth, Ayreon, Symphonic X, Threshold hay Pain of Salvation đều có âm thanh rất riêng của mình sau khi thử nghiệm kết hợp gốc prog với nhiều thể loại khác (power metal, death metal, classical...). Bước qua thế kỉ XXI, prog metal có chiều hướng mới khi progressive death kết hợp cùng jazz fusion tạo nên technical death metal, ngoài ra cùng làn sóng NWOAHM (New Wave of American Heavy Metal) khởi đầu bằng metalcore thì cũng xuất hiện nhánh mathcore. Hai thể loại này tiêu diệt hoàn toàn giai điệu (melody) của bài hát cùng những gì gọi là chất nghệ thuật của prog (art hay concept), thay vào đó là cấu trúc phức tạp, lối chơi kỹ thuật được đẩy lên đứng đầu. Ngoài những prog band lâu đời với nền móng vững chắc vẫn đều đều cho ra đời những album mới thì những ban nhạc mới cũng bắt đầu hiện diện và từ từ mở rộng tên tuổi của mình. Và trong một chu kì (hay giai đoạn) phát triển hỗn loạn của prog metal, thì cái tên Riverside xuất hiện. Một cái tên lạ mà cũng rất gần gũi mộc mạc, nhưng đâu phải ai cũng biết một điều khi thực sự bám dính vào Riverside, người nghe sẽ bị lôi cuốn vào chất nhạc độc đáo, màu sắc đặc trưng của band. Có thể mô tả Riverside là một sự hòa trộn giữa atmosphere rock và những yếu tố từ metal, tạo ra kết quả là một âm thanh giống với Pink Floyd, Tool, Dream Theater hay Porcupine Tree... (theo wiki). Nhưng đối với người viết, thì Riverside là Riverside, từ gốc gác prog rock/prog metal mà phát triển ra một “âm thanh Riverside” của riêng mình. Ba Lan, mặc dù không phải là một quốc gia cội nguồn, hay là sự thống trị của những metal band như Bắc Âu hay Bắc Mỹ, nhưng lại là đất nước của những Vader, Behemoth hay Decapitated - những death metal band vô cùng xuất sắc đã để lại tên tuổi của mình trên thế giới. Và giờ đây Ba Lan cũng là nơi khởi đầu cho cái tên Riverside. Năm 2001, câu chuyện về bờ sông bắt đầu ở thủ đô Warsaw... Trên một chuyến xe hơi trong thời khắc gần chuyển giao giữa hai thế kỉ, có hai tên mập (hoặc gần mập) - Piotr Grudziński và Piotr Kozieradzki. Lúc này Piotr Grudziński đang là lead guitarist của Unnamed - một band nhạc metal vô danh đúng như tên gọi, còn Piotr Kozieradzki thì từng chơi drum cho 2 death metal band Hate và Domain. Kozieradzki bất ngờ mở cho Grudziński nghe một cuộn băng của Marillion, và cả hai sớm phát hiện ra ngoài thể loại cục súc thì cả hai đều là fan của prog rock. Ý tưởng thành lập một prog band giữa hai tên mập mê death/prog bắt đầu nhen nhóm từ đây. Và cả hai phát hiện studio của Jacek Melnicki - một người bạn từ trước - sẽ là một nơi phù hợp để tập luyện, tất nhiên Jacek cũng tham gia với vai trò keyboardist (trước đây thì hắn cũng chơi cho khá nhiều band). Bước ngoạt của Riverside bắt đầu khi Mariusz Duda, một tay đa năng tham gia band với vai trò bassist. Cả 4 cùng bắt đầu tập luyện cùng nhau từ mùa thu 2001, họ chơi đi chơi lại các đoạn riff và giai điệu cho đến khi nào thật thỏa mãn và hài lòng với chúng. Vào lúc này thì Mariusz Duda quyết định trở thành vocalist của band và bắt đầu tập viết lyric cùng với việc hát chúng sao cho hợp lí. Một người quen gợi ý cho cả nhóm cái tên Riverside, và nghiễm nhiên nó trở thành tên ban nhạc. Trong liên tiếp hai năm 2002 và 2003, Riverside cho ra đời 2 demo đầu tiên cùng biểu diễn live ở một số địa điểm. Sau một thời gian dài biểu diễn và tập luyện, Riverside quyết định thực hiện album đầu tiên với cái tên Out of Myself. Một tháng trước khi album Out of Myself được phát hành ở Ba Lan thì Jacek rời band để tập trung vào studio và thay vào vị trí keyboardist là Michał Łapaj. Cuối cùng thì Out of Myself cũng được phát hành rộng rãi vào năm 2004 thông qua label Laser’s Edge, với cover được thực hiện bởi cover artist nổi tiếng Travis Smith (Opeth, Anathema, Katatonia...). Album sớm thu hút được đánh giá cao của giới review và nhận được sự cổ động của một cộng đồng Riverside-fan mới phát triển. Giai đoạn 2004-2005 là hai năm vô cùng tuyệt vời với Riverside, họ thực hiện vô số live show và tiến hành thu âm EP Voices In My Head rồi phát hành qua label Mystic Productions trong năm 2005. Lúc này thì Riverside thu hút khá nhiều sự để ý từ các label và cuối cùng họ gia nhập InsideOut. Tháng 10/2005 đánh dấu sự ra đời của Second Life Syndrome cùng một single Conceiving You, kèm theo đó là EP Voices In My Head được phát hành ra nước ngoài thông qua InsideOut. Tiếp tục phát triển tên tuổi của mình, Riverside phát hành album thứ ba – Rapid Eye Movement với 2CD trong năm 2007. Tiếp tục cộng tác với Travis Smith, ngoài ra lần này họ còn phát hành 2 single O2 Panic Room (2007) và Schizophrenic Prayer (2008). Thành công tiếp nối thành công, Riverside lại làm háo hức các fan bằng live album Reality Dream trong năm 2008 với trọn bộ instrumental Reality Dream cùng một số track nổi bật khác. DVD của live album này cũng được phát hành trong năm 2009. Sau một thời gian không phải là dài, album thứ tư của Riverside - Anno Domini High Definition cũng được InsideOut phát hành vào 19 tháng 6, 2009. Có số lượng track tương đối ít hơn so với các album trước nhưng độ dài mỗi track được tăng lên. Cùng với đó là trong mỗi track xuất hiện những đoạn instrumental khá giống Dream Theater, và chất psychedelic cũng giảm bớt đi. Mặc dù vậy, Anno Domini High Definition cũng mở ra một series mới (ba album trước mang series Reality Dream) với phong cách mới mẻ cho Riverside. (Từ trái qua phải: Piotr Grudziński, Michał Łapaj, Mariusz Duda, Piotr Kozieradzki) Đó là những gì để nói về âm nhạc của Riverside. Không mang phong cách riff, cấu trúc phức tạp hay quá tập trung vào instrumental skill của mỗi member dập khuôn của Dream Theater như một số band hiện nay. Riverside mang một sự tinh tế trong cả nội dung lẫn âm nhạc. Tất cả thành viên trong ban nhạc đều kết hợp lại, giữa họ có một sự kết nối đặc biệt trong mỗi bài hát. Đầu tiên là Piotr Grudziński – guitarist, hạt nhân sáng tác của Riverside. Nhìn chung trong mỗi track của Riverside, tần số xuất hiện của guitar không nhiều, nhưng mỗi khi chúng được cất lên thì lại là một điểm nhấn của ca khúc. Những đoạn riff không quá nặng nề và tạo nên giai điệu uyển chuyển, solo trau chuốt vừa đủ với phong cách ảnh hưởng từ David Gilmour, John Petrucci và Danny Cavanagh. Mariusz Duda, người được coi là bộ não của Riverside với một bass style khá lạ, sử dụng các effect của bass kết hợp cùng các nhạc cụ khác, hay đôi lúc chính là nhạc cụ vốn có của Mariusz - giọng hát, từ tiếng thở dài cho tới tiếng gào thét đan xen lẫn nhau, hay thậm chí nối tiếp nhau để tạo nên hiệu ứng lạ cho Riverside. Cùng với đó là khâu rhythm của Piotr Kozieradzki, với nhịp trống mạnh mẽ mang ảnh hưởng từ những heavy/death metal tạo nên một chút nặng nề cho tông nhạc vốn dĩ đã khá mềm mại của Riverside. Và mảnh ghép cuối cùng của Riverside – Michał Łapaj, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên màu sắc cũng như âm hưởng của Riverside. Riverside sẽ không là Riverside nếu thiếu bất cứ một trong bốn mảnh ghép trên. Giữ sự ổn định giữa kỹ thuật và cảm hứng, thì Riverside còn mang một chiều sâu nội dung. So với những ban nhạc cùng thể loại với lyrical theme về trầm cảm, những concept về cảm xúc... thì Riverside lại xung quanh một mảng về cuộc sống. Là sự giằng xé giữa tâm trạng, mối quan hệ tồn tại phức tạp, cùng những câu hỏi được đặt ra, hay những lời bộc bạch chân thành nhất từ mỗi con người. Mỗi album của Riverside chính là một concept, nhưng mỗi track đều mang một sắc thái riêng theo cái cách thể hiện rất đặc sắc của Riverside, lắng đọng trong lòng mỗi người nghe. (Theo chiều kim đồng hồ: Piotr Grudziński, Mariusz Duda, Piotr Kozieradzki, Michał Łapaj) Nguồn: Lược dịch từ nhiều nguồn + nhận xét cá nhân.