.Hack//G.U Plot Analysis - Mini Wikia Lời nói đầu : * Do kiến thức chuyên sâu về Project .Hack quá rộng lớn (gồm hơn 30 tựa game , anime , manga và novel) nên bài víêt chỉ tổng hợp những thông tin cần thiết nhất và các sự kiện chính diễn ra trong series video game .Hack//G.U trên hệ máy PS2 để các bạn tiện theo dõi. Một số vấn đề và sự kiện khác liên quan có thể được đề cập đến nhưng sẽ không có giải thích rõ ràng và chi tiết. * Đây là bài viết dành cho tất cả các fan của .Hack có chứa đựng spoiler tòan bộ nội dung của dòng game .Hack//G.U nên nếu bạn chưa chơi qua xin tuyệt đối đừng đọc vì bạn có thể mất hết cảm hứng khi chơi sau này. * Bài víêt sử dụng kho tư liệu chính tại Wikia của .Hack ( www.dothack.wikia.com/wiki/ ) nên nếu bạn cần tham khảo thêm những tài liệu bằng tiếng Anh thì có thể xem qua. Hoặc bạn có thể xem qua bài "Tổng quát về .Hack//G.U" của Genius_Ranza --------------------------------------------------------- Phần 1 : Sự ra đời của Project .Hack , "The World" và Altimit OS I./Project .Hack : Dự án .Hack , còn hay gọi là Dot Hack (Dot tức dấu chấm trong tiếng Anh) chính thức được khởi xướng từ năm 2002 với tựa game đầu tiên trên hệ máy PS2 : .Hack//INFECTION và series anime .Hack//SIGN . Dot Hack ban đầu có sự tham gia của Koichi Mashimo , Kazunori Ito và nhân vật huyền thọai Yoshiyuki Sadamoto (người đã sáng lập ra Studio Gainax và đảm nhận thiết kế hầu hết các nhân vật, cover trong tòan bộ dự án .Hack sau này) và mục tiêu chính của họ là mở rộng dự án của mình lên tất cả các phương tiện giải trí truyền thông từ những bộ tiểu thuyết cầm tay (Novel) , manga , trading cards cho đến cả TV (Anime TVs) và video games . Ý tưởng của .Hack hướng đến thế giới tương lai ảo tưởng, khi nhân loại đã có những bước tiến vượt bật trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tất cả mọi người đều có thể dễ dàng sử dụng và kết nối Internet ở bất cứ nơi đâu và mọi PC trên thế giới đều sử dụng chung một hệ điều hành là Altimit OS. Khi đó tồn tại một MMORPG (Massively Multi-player Online RPG -game nhập vai trực tuyến nhiều người chơi) vốn rất được ưa chuộng là "The World" ấn hành bởi tập đòan CC.Corp (ngay ngày đầu tiên xuất phẩm lên mạng cho download đã có tới 4,576,623 lượt tải về). Nhưng sau đó những sự kiện kì lạ bắt đầu xảy ra khi liên tiếp nhiều người tham gia "The World" rơi vào tình trạng hôn mê bất tỉnh mà không ai có thể giải thích được tại sao, họ gọi nó là thảm kịch Twilight Incident . Những sản phẩm của dự án Dot Hack đã ra đời và đang được "thai nghén" : Games * .hack//Games o Infection o Mutation o Outbreak o Quarantine * .hack//G.U. Games o Rebirth o Reminisce o Redemption * .hack//frägment * .hack//MOBILE * Card Games o .hack//Enemy o .hack//G.U The Card Battle * Other o .hack//Chat Anime * .hack//SIGN * .hack//Liminality * .hack//GIFT * .hack//Legend of the Twilight * Online Jack * .hack//Roots * .hack//G.U. Returner * .hack//G.U. Trilogy Manga * .hack//4koma * .hack//Alcor * .hack//GnU * .hack//G.U.+ * .hack//Legend of the Twilight * .hack//Rena Special Pack * .hack//XXXX Novels * .hack//AI Buster * .hack//AI Buster 2 * .hack//Another Birth * .hack//CELL * .hack//G.U. * .hack//ZERO II./Altimit OS và 2 sự kiện Pluto (Network's Crisis) : Đầu thế kỉ 21, rất nhiều hệ điều hành (OS) được phát tán và sử dụng rộng rãi trên thế giới và một trong số đó là Altimit OS của ALTIMIT, một công ty nhỏ bé không tiếng tăm tại San Francisco - Hoa Kì. Sản phẩm của ALTIMIT không hề được ưa chuộng và hầu như rất ít được biết đến tại thời điểm đó. Nhưng tình cờ, một sự kiện lớn đã xảy ra với cả nhân loại và thay đổi hoàn tòan số phận của công ty. Đó chính là sự kiện Pluto's Kiss vào ngày 24/12/2005 , 1 virus máy tính được viết bởi 1 hacker chỉ mới 10 tuổi tại Los Angeles đã Shut down tòan bộ hệ thống máy tính trên tòan thế giới trong 77 phút dẫn đến những thảm họa không tưởng: tai nạn ùn tắt giao thông khắp nơi, thảm kịch rơi máy bay, mối đe dọa từ vệ tinh nhân tạo và thậm chí những đầu đạn hạt nhân của Hoa Kì cũng đứng trước nguy cơ tự kích nổ... Chỉ duy nhất những PC sử dụng một hệ điều hành không hề bị phá hoại chính là Altimit OS mà sau này người ta mới phát hiện OS này miễn nhiễm hoàn tòan các loại virus máy tính. Kết quả vượt ngoài mong đợi, Altimit hiển nhiên trở thành OS hòan hảo nhất trên thế giới và được sử dụng rộng rãi khắp mọi nơi. Năm 2007, hiệp hội mạng máy tính thế giới (WNC) chính thức công nhận Altimit OS là hệ điều hành cần phải có của bất kì máy tính nào giúp doanh số bán ra của Altimit trên thế giới đã đạt tới ngưỡng 100% tuyệt đối . Nói dễ hiểu hơn là mọi người, mọi nhà đều sử dụng Altimit OS, phổ cập nó và ngay cả một công ty lớn cũng không thể đưa vào hoạt động nếu không có những phần mềm hỗ trợ của Altimit. Sau đó , game online đầu tiên sau sự kiện Pluto's Kiss được ra đời mang tên "The World" chạy trên nền Altimit OS gắn liền hai tên tuổi: CC.Corp và ALTIMIT. Nhưng vào năm 2010 mọi niềm tin của nhân loại vào ALTIMIT đã sụp đổ hòan tòan khi sự kiện Pluto Again lại tái diễn ra với hậu quả nặng nề. Những hệ OS khác lại tiếp tục được phát triển và ấn hành, riêng Altimit vẫn còn duy trì hoạt động nhưng không thể còn vững mạnh như những gì nó đã làm được. Vào vào giữa năm 2010, một công ty khác mang tên Mine Systems Inc. cho ra đời một OS mang theo thương hiệu ALTIMIT : ALTIMIT Mine OS. The World R:2 (The World phiên bản 2) trong .Hack//G.U chính là chạy trên nền OS này. Số phận tập đòan ALTIMIT đã đi về đâu? Tại sao Mine Systems lại mang kèm thương hiệu của ALTIMIT? vẫn còn là một câu hỏi lớn bị bỏ ngõ . III./The World : The World là MMORPG đầu tiên được phát triển dành riêng cho Altimit OS từ tập đòan CC.Corp và là sản phẩm được ưa chuộng nhất vào thế kỉ 21 với doanh số preoders (đặt mua) vượt quá ngưỡng 100.000 vào tháng 9 năm 2007 cùng 4,576,623 lượt tải về từ ngày đầu tiên được ấn hành trên mạng. The World được viết bởi một lập trình viên thiên tài người Đức mang tên Harald Hoerwick với cái tên thưở sơ khai là Fragment. Fragment phát hành như một phiên bản thử nghiệm (Open Beta) trong 9 tháng đầu trước khi chính thức tung ra The World nhưng đã bị ngưng vận hành trước thời hạn mà không ai biết được nguyên nhân. Nội dung của The World dựa trên Epitaph of Twilight, 1 bài thơ của nữ thi sĩ Emma Wielant (chính là người yêu của Harald). Trong thế giới của The World, những người chơi tham gia vào game đóng vai trò là những tay phiêu lưu mạo hiểm (adventurers) trên con đường chống lại các thế lực tàn ác quấy nhiễu nhân loại. Và đương nhiên The World cũng có nhiều servers , nhiều class (lớp) nhân vật khác nhau, các hang động (Dungeons) để người chơi khám phá, các Items hay các NPCs (những nhân vật không điều khiển được thường giao các nhiệm vụ trong MMORPG) và cũng không thể thiếu những GM (Game Master , người điều hành và quản lý The World) . Người chơi The World sẽ tạo ra những nhân vật theo cá tính sở thích họ được gọi chung là PC (Playable Character) với 1 nickname và 1 account (tài khỏan) riêng biệt . Năm 2015, một trận hỏa hoạn lớn tại CC.Corp đã cướp đi hầu hết dữ liệu về The World . CC.Corp sau đó nhanh chóng khắc phục hậu quả và cho ra mắt sản phẩm The World: Revision 2 vào dịp giáng sinh cùng năm từ những gì còn sót lại từ The World và kèm theo 1 dự án mà họ đang phát triển. The World:R2 sau đó bị nhiều người chơi phản ảnh vì họ không thể chơi tiếp PCs của mình từ The World mà phải tạo ra những PCs mới, kèm theo là 1 lời đồn đại về "Goddess's Death". Dù vậy nhưng The World:R2 vẫn bán được doanh số 12 triệu bản. The World:R2 có nội dung diễn ra sau 100 năm mọi sự kiện của phiên bản cũ và chính là nơi khởi đầu câu chuyện .Hack//G.U về định mệnh giữa Haseo và Ovan của chúng ta. IV./Nguồn gốc của Aura (The Ultimate AI) , Project "G.U" : Như đã đề cập, Harald Hoerwick chính là "cha đẻ" của The World và ông đã lấy bài thơ "Epitaph of Twilight" của người ông thầm yêu Emma Wielant làm tiền đề cho nội dung của game với version đầu tiên là Fragment. Nhưng sau khi Emma đột ngột qua đời, Harald đã chịu đựng một cú sốc rất lớn và ông quyết định khai sinh ra cái tên "Aura" xem đó như là đứa con đầu lòng của ông với Emma mà sẽ không bao giờ có thể trở thành hiện thực. Aura theo lý tưởng của Harald là một "Ultimate AI" (AI tức trí thông minh nhân tạo) , một AI trong game nhưng có thể suy nghĩ , hành động và có cảm tính độc lập như một con người . Để thực hiện được nguyện ước, ông đã tạo ra Morganna System một hệ thống giúp thu thập mọi thông tin từ người chơi thông qua tương tác của họ trong The World giúp hòan thiệu Aura. Đối với những người tham gia The World , họ xem Aura như một nữ thánh sống luôn theo sát và giúp đỡ họ khi cần thiết , là nhân tố quan trọng nhất giúp duy trì The World và network. Nhưng sau sự kiện Legend of the Twilight (anime), Aura đã mất tích một cách bí ẩn không chỉ làm gián đọan The World mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống mạng khắp mọi nơi . CC.Corp ngay sau đó nhận thức được tầm quan trọng của Aura và họ phát triển 1 dự án tối mật mang tên "G.U" nhằm tìm kiếm và đưa Aura trở lại. Người đứng đầu dự án này là 1 lập trình viên trẻ tuổi mang tên Jyotaro Amagi với mục đích duy nhất: hồi sinh Aura từ những dữ liệu còn sót lại từ Morganna cùng 8 Phase. 8 Phase này được Amagi cấy vào 8 "Epitaph-PCs" do CC.Corp tạo ra và 8 người chơi có khả năng đặc biệt được chọn (The Chosen One) sẽ là người sử dụng các PCs này để hồi sinh Aura. Nhưng dự án đã thất bại và nằm ngoài tầm kiểm sóat của Amagi dẫn đến The World mất gần sạch tòan bộ dữ liệu và 7 trong 8 người chơi được chọn (Epitaph Users) rơi vào trạng thái hôn mê bất tỉnh (coma) . Amagi trở nên tuyệt vọng và điên lọan, cậu đã tự tay châm ngọn lửa thiêu cháy toàn bộ toà nhà của CC.Corp gây ra sự kiện vào năm 2015 và là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của The World:R2 ngay sau đó. Bức tượng của Aura tại Δ Hidden Forbidden Holy Ground trong The World phiên bản cũ cũng theo đó mà biến mất không dấu vết . 8 Phase của Morganna : 1. Skeith:"The Terror of Death" 2. Innis:"The Mirage of Deceit" 3. Magus:"The Propagation" 4. Fidchell:"The Prophet" 5. Gorre:"The Machinator" 6. Macha:"The Temptress" 7. Tarvos:"The Avenger" 8. Corbenik:"The Rebirth" V./Jun Bansyoya , The End of The World : Bức hình mơ hồ duy nhất còn sót lại của Jun và Reiko Trong dự án tối mật "G.U" của CC.Corp, ngoài lãnh đạo tối cao Jyotaro Amagi còn một nhân vật khác rất quan trọng đảm nhiệm chính là Jun Bansyoya với một nhiệm vụ khó khăn: điều tra mọi manh mối từ sự kiện Morganna Incident nhằm tìm ra được Aura - The Ultimate AI. Nhưng sau đó cả hai đã quyết định đề ra kế họach "R.A" với mục tiêu không tưởng là cấy 8 Phase còn sót lại từ Morganna vào 8 Epitaph PCs đặc biệt cùng hi vọng các mảnh vỡ của Morganna này khi tập hợp với nhau có thể tái tạo được một Aura khác hòan chỉnh hơn và nằm dưới sự kiểm sóat của CC.Corp. Nhưng Jun Bansyoga nhanh chóng nhận ra nguy cơ tiềm ẩn trong "R.A", nếu 8 Phase có thể tập hợp với nhau và tái tạo lại Aura sẽ sinh ra một sự mất cân bằng lớn trong thế giới The World và đánh dấu sự xuất hiện của một "Anti-Existence" (giống như Cubia và Key of the Twilight) đe dọa sự tồn vong của nhân loại. Vì thế anh đã âm thầm lấy cắp Epitaph PC sở hữu Phase "Tarvos" và giấu kín nó trong máy tính cá nhân của mình. Tuy nhiên, Amagi đã lường trước được tình huống này và đã kịp thời back-up lại tòan bộ dữ liệu trong Morganna tạo thành một "Dummy Morganna Factor" trước khi Tarvos bị đánh mất và sử dụng nó để tiếp tục kế hoạch điên rồ của mình sau sự ra đi của Jun. Kết quả , kế họach thảm bại hòan tòan, 80% dữ liệu của The World đã bị xóa sạch và Amagi điên dại tự thiêu chính mình cùng tòa nhà nghiên cứu. Jun nhanh chóng trở lại và tìm mọi cách để phục hồi những gì còn có thể nhưng việc duy nhất anh làm được là bắt thêm một Phase: "Magus" , 6 Phase còn lại đã trốn thóat và ẩn mình cùng hệ thống. Jun Bansyoga đã đứng ra nhận tòan bộ trách nhiệm về sai lầm của dự án và chấm dứt công việc tại CC.Corp. Đến khi The World:R2 ra đời, Jun mới phát hiện 6 Phase còn sót lại đang tìm cách kết hợp với 6 người chơi đặc biệt được chọn (mà sau này chính là những Epitaph's User), và anh đã quyết định tự tay trao Epitaph PC nắm giữ "Tarvos" cho chính em gái của mình: Reiko Saeki cùng một quyển nhật kí. Sau đó, nhiều người cho rằng anh đã chết và mất tích một cách bí ẩn. Phần 2 : The World : Revision 2 I> Thuật ngữ "PK" , "PKK" , "Guild" , "The Lost One" : PK , PKK , Guild là 3 thuật ngữ thông dụng nhất trong bất kì một MMORPG nào và ở The World trong Dot Hack cũng không là một ngoại lệ , vì thế trước hết các bạn nên làm rõ 3 thuật ngữ này để tránh mọi vướng mắt trong game . PK (Player Killer) : là thuật ngữ mô tả hành vi người chơi triệt hạ lẫn nhau bằng PCs trong MMORPG. Khi các PCs của họ đã đạt đến một level nhất định và có những trang bị cần thiết thì việc nảy sinh nhu cầu so tài cao thấp với nhau là điều tất yếu nhưng khác với hình thức PVP (Player Vs Player) phải có sự đồng thuận giữa hai bên thì PK cho phép người chơi tấn công lẫn nhau và tiêu diệt mục tiêu ngay trên mọi địa điểm (trừ Town) bất cứ lúc nào . Khi một PCs đã bị "PKed" thì PCs ấy sẽ trở về với Town gần nhất và có thể bị rớt ra 1 số trang bị đang mặc trên người vào tay PCs đã PK họ . Vì thế một số người chơi MMORPG xem việc đi PK những noob (những người mới tập làm quen với game) là niềm vui và sở thích . Trong The World , những tay PK hàng đầu sẽ được phong danh hiệu "Chaotic PK" . PKK (Player Killer Killer) : có thể hiểu đơn giản là những người chơi chuyên đi săn lùng và PK những PCs đã PK người khác . Đương nhiên một khi đã quyết định làm 1 PKK thì người chơi ấy phải có level rất cao và trang bị rất mạnh vì họ sẽ phải thường xuyên đối mặt với sự thù ghét và là mục tiêu số 1 của rất nhiều tay PK trong game . Trong series .Hack//G.U thì Haseo là nhân vật duy nhất đi theo con đường này. Guild : là thuật ngữ trong MMORPG dùng để chỉ một nhóm người chơi cùng chung một ý tưởng tập hợp lại thành một tổ chức với tên và cơ cấu riêng biệt . Người đứng đầu những tổ chức này cũng là người sáng lập đều gọi chung là Guild Master. Họ có toàn quyết quyết đinh việc thêm bớt thành viên và quản lý mọi hoạt động của Guild. Trong game The World , 1 Guild lớn mạnh có thể được CC.Corp cấp cho một địa phận riêng biệt để các thành viên có nơi sinh hoạt cố định . Có rất nhiều Guild trong The World:R2 với những mục đích khác nhau như "Kestrel" chuyên tuyển mộ những PCs thích PK hay "Moon Tree" với lý tưởng trái ngược: bảo vệ mọi người chơi khỏi những tay PK xấu tính. PK từ lâu đã là 1 quan niệm sai trái và khiến rất nhiều người tham gia The World bất bình , đó cũng là lý do CC.Corp phải tháo bỏ tính năng nay trong phiên bản The World đầu tiên nhưng sau sự ra đời đột ngột của The World:R2 , hệ thống PK và PKK đã trở lại dẫn đến một số ít tẩy chay CC.Corp . Một số trường hợp đặc biệt , những PCs bị PKed bị mất sạch dữ liệu trong The World và chủ nhân của PCs đó ngoài đời bị rơi vào trạng thái hôn mê bất tỉnh (coma) vô thời hạn mà không ai có thể giải thích được . Họ gọi đó là những "The Lost One" . Nickname của những PCs đã từng là "The Lost One" trong series .Hack//G.U : * Shino * Alkaid * Sirius * Matsu * Hiiragi * Sophora * 1 số thành viên của G Moon Tree * Bordeaux * Grein * Atoli * Pi * Haseo II.> AIDA , AIDA PC , sự cố AIDA Server : AIDA = Artificially Intelligent Data Anomaly là một thuật ngữ đặc biệt mà CC.Corp đặt cho những lỗ đen kì lạ xuất hiện ngẫu nhiên tại một số địa điểm trong The World vượt ngoài tầm kiểm soát của họ. 1 số người xem nó như 1 bug (lỗi game) cần khắc phục và 1 số khác xem nó như 1 loại virus máy tính . Theo giả thuyết của administrator Yata (1 trong 8 Epitaph User sau này) thì AIDA rất có hứng thú với loài người nên nó luôn tồn tại trong The World:R2 mà không phát tán ra bên ngoài Internet. Vì thế , Yata thuyết phục CC.Corp duy trì The World:R2 liên tục không bao giờ shutdown server để tránh mọi hiểm họa tiềm ẩn có thể xảy ra đối với network. Nguyên nhân thật sự hình thành nên AIDA chính là sự mất tích của Aura dẫn đến mất cân bằng trong thế giới The World. AIDA tồn tại tự nhiên như những AIs bình thường, như những lỗi game không hình hài và không hề gây nguy hiểm đối với người chơi. Nhưng sau khi AIDA phát triển liên tục thành hàng ngàn hàng vạn lỗ hổng của hệ thống thì nó bắt đầu đột biến thành những mối đe dọa thật sự. AIDA đầu tiên tấn công người chơi là "Tri-Edge" và nạn nhân chính là em gái của Ovan , khởi nguồn của toàn bộ bi kịch.Hack//G.U sau này. AIDA bắt đầu nhận thức được sự tồn tại của thế giới bên ngoài thông qua kí ức của những nạn nhân mà nó thâm nhậm và trở nên cực kì hung hãn với nguy cơ đặt ra cho nhân loại có thể phải đối mặt với Network's Crisis lần thứ 3. AIDA tấn công người chơi thông qua những PCs và khiến họ hòan toàn mất tư chủ , những PCs này được gọi chung là "AIDA-PC" . AIDA lây nhiễm và phát tán như 1 loại virus dịch bệnh với rất nhiều hình thù khác nhau, chúng còn có thể tự tách ra khỏi chủ thể làm thành những hình hài riêng biệt. 8 Epitaph's User là những PCs duy nhất có khả năng miễn nhiễm với AIDA nhưng xác suất bị tấn công vẫn rất cao và một khi bị AIDA chi phối thì họ sẽ mất cả quyền kiểm sóat những Avatar (Phase) của mình khiến chúng trở nên điên lọan. Đặc biệt hơn , khi AIDA-PCs PK một PC khác và thành công thì PC đó sẽ trở thành những "The Lost One". Nickname của những PCs đã bị lây nhiễm bởi AIDA : * Endrance * Pi * Atoli * Saku * Bordeaux * Sirius * Sakaki * Taihaku * Ovan * Ina * Hetero * Leucistic * Axanthic AIDA Server là sự cố lớn nhất do AIDA gây ra sau khi chúng tấn công và kiểm sóat được Atoli - Epitaph User cùng Avatar Innis vào cuối .Hack//G.U vol 1 . Chúng tự tạo ra một server riêng biệt dựa trên tòan bộ dữ liệu copy được từ server của CC.Corp và dịch chuyển tất cả người tham gia The World qua server này khiến họ không thể logout (thóat) ra khỏi game được. Nhưng mọi việc đã được giải quyết nhanh chóng sau khi nhóm của Haseo đột nhập thành công vào Operations Folder (Thư mục điều hành server của CC.Corp) và đưa mọi người chơi trở lại như cũ. III.> The Azure Knights , "Sign" , The Lost Grounds , The Vagrant AI : The Three Azure Knights (三蒼騎士)là phong hiệu dành cho 3 PCs huyền thoại : Kite , Orca và Balmung từ The World phiên bản cũ. Orca và Balmung còn từng được nhiều người xưng tụng là "Descendants of Fianna" với 2 danh phong "Balmung of the Azure Sky" , "Orca of the Azure Sea" sau khi họ hòan thành được event "The One Sin" được xem là event khó nhất trong game The World. Trước năm 2015 khi The World:R2 bắt đầu khởi động, Three Azure Knights đã không còn tham gia vào game nhưng 3 PCs của họ xuất hiện trở lại trong series .Hack//G.U (bắt đầu từ cuối anime .Hack//Roots) khiến rất nhiều người lầm tưởng họ đã bị chi phối bởi AIDA và tấn công người chơi nhưng sự thật hoàn toàn không phải vậy. Three Azure Knights xuất hiện trong G.U đơn thuần là những AIs do chính Aura tạo ra từ ký ức của cô về The World cũ với mục đích duy nhất là tiêu diệt AIDA trả lại sự cân bằng cho The World. Đó là lý do 3 AIs này luôn theo đuổi Ovan, chính xác hơn là cánh tay trái của Ovan đã bị AIDA "Tri-Edge" thâm nhậm. 3 AIs "Three Azure Knights" trong G.U : * Azure Flame Kite * Azure Balmung * Azure Orca Mỗi khi AIDA Tri-Edge tấn công (PK) người chơi nó đều để lại bên cạnh nạn nhân một dấu hiệu hình tam giác với 3 góc nhọn . PC Tawayara (trong anime Roots) sau này đã đặt tên cho các dấu hiệu ấy là "Signs" và các Signs có khả năng dịch chuyển người chơi đến những không gian đặc biệt trong The World:R2 vượt ngòai tầm kiểm sóat của CC.Corp, có thể hiểu nôm na như những lổ hỗng trong game tạo ra bởi các tay Hackers. 3 AIs "Three Azure Knights" luôn duy chuyển bằng Signs nên chúng dễ bị hiểu lầm là AIDA. Trong game, chỉ có những PCs của Epitaph User sử dụng các Data Seed thu thập được sau khi tiêu diệt AIDA mới có thể sử dụng tính năng "Sign Hacking" để dịch chuyển vào trong Signs. "The Lost Grounds" là những địa điểm trong The World:R2 còn sót lại từ thời của phiên bản thử nghiệm Fragment và không thuộc phạm vi kiểm soát của CC.Corp. Nhiều người cho rằng, Harald đã tạo ra những Lost Grounds dựa theo "Sacred Zones" đựa mô tả trong bài thơ Epitaph of the Twilight của Emma. Một số Lost Grounds có để lại "Signs" của Tri-Edge và "Hulle Granz Cathedral" là nơi trưng cất bức tượng nữ thần Aura nhưng đã biến mất một cách bí ẩn sau sự kiện dữ liệu của CC.Corp bị thiêu cháy vào năm 2015. Tên của các Lost Grounds trong The World:R2 : * Arche Koeln Waterfall * Backtop City Megin Fi * Briona Gwydion the Dragonbein Range * Coite-Bodher Battlefield * Dark Morrigu Barrow Wall * Dead World of Indieglut Lugh * Great Temple of Caerleon Medb * Hulle Granz Cathedral * Hy Brasail, the Isle of Kings * Land of Sins Ran Badhi * Morrigu Barrow Wall * Six Ringing Peaks of Al Fadel * Sugar Mansion Sif Berg * The Creator's Room * Wailing Capital Wald Uberlisterin Vagrant AI (hay còn gọi là "Wandering AI") là những AI hoạt động nằm ngoài tầm kiểm soát của CC.Corp . Một số ít là do các hacker tạo ra vì thú vui hay mưu đồ phá hoại hệ thống của CC.Corp nhưng thật chất các AI này chính là nguồn dẫn dữ liệu thu thập được đến "mẹ" của chúng - The Ultimate AI Aura nhằm hoàn thiệu Aura . Một số ít Vagrant AI có thể tự tồn tại như một cá thể độc lập , và chúng được tạo ra với một mục đích duy nhất là đi tìm dấu hiệu của "Sự kết thúc" , sự thức tỉnh của Aura và cũng là lúc để chúng có thể vĩnh viễn yên nghỉ trả lại sự cân bằng cho The World . Vào khoảng thời gian khi The World mới được phát hành , Vagrant AI chính là nguyên nhân gây ra những dữ liệu lỗi của PC trong game (PC's corruption data) nên chúng nhanh chóng trở thành mục tiêu săn đuổi và tiêu diệt hàng đầu của Cobalt Knights (đội ngũ admin chuyên debug game) IV.> Key of the Twilight , The "Anti-Existence" Cubia : Key of the Twilight là item huyền thoại trong thế giới của The World được tạo ra bởi chính tác giả Harald như một bảo bối có thể vượt qua mọi rào cản của hệ thống biến mọi ước mơ của người chơi trở thành sự thật. Vì thế rất nhiều người đã sẵn sàng đánh đổi tất cả để đi tìm nó nhưng không một dấu vết hay một manh mối nào còn sót lại để có thể dẫn dắt họ và đó cũng là lý do thành lập nên Guild "Twilight Brigade" của Ovan. "When the key that overturns all is possessed everything shall unfold." — Harald Hoerwick — Key of the Twilight trong G.U được xem như chiếc chìa khóa cuối cùng dẫn đến mọi chân lý, mọi sự thật đằng sau The World và âm mưu của Ovan . "Twilight Bracelet" - chiếc vòng của Kite trong The World và chính PC của Haseo trong The World:R2 sau này đều là hiện thân của Key of the Twilight . Sức mạnh diệu kì của Key of the Twilight có thể thay đổi tòan bộ thế giới The World gây ra sự mất cân bằng , những điều không thể có theo lý lẽ tự nhiên . Do đó mỗi khi ánh sáng của Key of The Twilight tỉnh giấc cũng là lúc đánh dấu sự xuất hiện của Cubia - the "Anti-Existence" để tái cân bằng The World. Nói một cách khác khi thừa kế Key of the Twilight thì định mệnh đã chọn lựa người đấy phải đối mặt với Cubia . "When the Bracelet appeared in the world, Cubia was born as well. The Bracelet and Cubia are opposite sides of the same coin. Therefore... if you defeat Cubia, the Bracelet will be destroyed." — Aura — Nếu xem Key of the Twilight là nguồn ánh sáng mang lại hy vọng cho thế giới của The World thì Cubia chính là "bóng tối" mang lại sự diệt vong và đưa tất cả trở lại thời điểm ban đầu. Ở G.U, sức mạnh của Cubia có thể hủy diệt toàn bộ hệ thống network tòan cầu và gây ra thảm họa "Network's Crisis" thứ 3 với mức độ lớn nhất mà nhân loại phải gánh chịu. ___________________________ Phần 3 : Câu chuyện về G.U Trước khi xem qua câu chuyện về G.U mời các bạn hãy cùng nghe và thưởng thức : Gentle Hands - bản tình ca sâu lắng nhất mọi thời đại , vượt qua mọi không gian thời gian DotHack. Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều người đã so sánh ca khúc này với siêu phẩm huyền thoại 1 thời "Suteki Da Ne" của FFX . Lyrics I.> Cột mốc trước mọi sự kiện trong Roots : Có thể nói tất cả mọi bi kịch và định mệnh khắc nghiệt trong câu chuyện của G.U đều khởi nguồn từ một cái tên: Aina. Aina tên thật ngoài đời là Aina Indou (犬童愛奈), một cô gái nhỏ nhắn xinh đẹp và bình thường như bao đứa trẻ khác nhưng lại phải gánh chịu trên mình một chứng bệnh nan y rất nặng. Aina đã từng phải đến Đức để chữa trị nhưng vẫn không thể cải thiện. Trong quãng đời đau khổ còn lại , cô quyết định dành hết thời gian của mình để tham gia vào thế giới của The World:R2 xem nó như cơ hội cuối cùng mà cô còn thể ở lại bên cạnh và vui đùa cùng người anh trai Masato Indou mà cô rất mực yêu thương. Đau khổ và tuyệt vọng, Masato Indou quyết định tham gia The World:R2 với mục đích duy nhất là có thể tìm ra The Key of Twilight để chữa lành căn bệnh cho Aina, anh lập ra một PC với nickname Ovan . Hai người thường trãi qua mọi thời gian bên nhau trong game tại những "The Lost Ground" mà nơi Aina thích nhất là "Creator's Room", một căn phòng với không gian trắng xóa và cô thường được ngồi nghe anh trai của mình kể chuyện (một trong số đó chính là câu chuyện về "Epitaph of Twilight"). Aina cũng rất thân với một PC có nick Phyllo vốn rất am hiểu về thế giới của The World và từng giới thiệu ông ta với Ovan. Trong quãng thời gian này, Ovan với vốn kiến thức tin học sâu rộng và được xem là một trong những hacker thiên tài, anh không mấy khó khăn để đến bất cứ nơi nào mình muốn trong The World (kể cả những Lost Ground) với một level rất cao và tính cách trầm lặng khiến nhiều PCs khác phải kính phục và đã làm quen được với một người bạn tâm giao là Naobi. Cũng có lời đồn đại rằng mọi người thường thấy Ovan hay dắt tay cô em gái nhỏ của mình đến Hulle Granz Cathedral tại Δ Hidden Forbidden Holy Ground để cầu nguyện. Nhưng số phận đã hòan tòan theay đổi cuộc đời của Ovan và Aina trong The World vào một ngày định mệnh khi lần đầu tiên họ chạm trán với một AIDA: "Tri-Edge" tại Creator's Room. Ovan đã lấy hết thân mình để che chở cho cô em gái nhưng anh không thể nào ngờ chính cánh tay trái của mình lại bị AIDA chi phối và PK khiến Aina trở thành The Lost One đầu tiên trong thế giới The World:R2 . II.> Số phận của các nhân vật: Masato Indou (Ovan) : Niềm tin và hy vọng dù chỉ là rất mỏng manh nay cũng không còn nhưng với Ovan, anh không bao giờ dễ dàng gục ngã, không thể quay lưng với số phận. Chỉ còn một con đường duy nhất, một định mệnh không thể tránh khỏi, chính là "Key of The Twilight". Và Ovan đã quyết định thành lập nên "Twilight Brigade" Guild làm tiền đề cho kế họach không tưởng của mình sau này. Tình cờ , Ovan cũng phát hiện ra sức mạnh của một Epitaph User và Phase "Corbenik" đang tiềm ẩn trong PC của mình , một sức mạnh có thể thay đổi cả định mệnh, đó chính là "Rebirth". Ovan xuất hiện trong anime Roots Aina Indou (Aina) : Trở thành một Lost One, Aina Indou mất hòan toàn ý thức và hôn mê bất tỉnh trên giường bệnh. Còn trong The World, PC của cô vẫn tồn tại và luôn ngồi bất động tại chiếc ghế trong căn phòng Creator's Room mà hằng ngày Ovan vẫn thường ghé thăm. Nhưng chắc rằng cô không bao giờ có thể ngờ được kế họach điên rồ mà anh trai của mình đang ngấm ngầm thực hiện sau này có thể sẽ đánh đổi tất cả và hủy diệt toàn bộ nhân loại. "The Lost One" Aina Ryou Misaki (Haseo) : Nhân vật chính của chúng ta, Ryou Misaki, chính là hạt nhân của toàn bộ bi kịch G.U, là chiếc chìa khóa duy nhất đi đến thành công trong kế họach của Ovan. Năm 10 tuổi, Ryou từng tạo ra PC Sora (một PK khét tiếng) và tham gia vào The World nhưng sau đó bị Phase "Skeith" Data Drain trở thành một Lost One. Sau sự kiện kết thúc Final Chapter - Quaratine (Kite giải cứu thành công mọi Lost One) thì Ryou trở lại bình thường nhưng mất đi tòan bộ kí ức về The World. 8 năm sau, CC.Corp cùng Amagi từng săn tìm cậu để thực hiện kế họach G.U nhưng thất bại, Ryou vì thế mà cũng là Epitaph User duy nhất thóat khỏi coma trong số 8 người được thí nghiệm cấy Phase. Đến khi The World:R2 ra đời, Ryou Misaki nghe lời giới thiệu của bạn bè và tham gia vào game lập ra PC: Haseo với class là "Adept Rogue" , khởi đầu câu chuyện Roots. Ngoài đời, Ryou là một học sinh trung học bình thường và đang theo học tại một trường tư thục ở Nhật. Ryou Misaki khi tham gia The World:R2 Shino Nanao (Shino) : Shino Nanao ngòai đời là một sinh viên đại học tại Saitama, Nhật Bản. Cô sống độc thân tại một căn hộ nhỏ hẹp với niềm đam mê chính là nuôi trồng và chăm sóc các loại cây hoa kiểng. Sau khi tham gia vào The World:R2 với PC Shino, cô gia nhập Guild "Twilight Brigade" và rất ngưỡng mộ Ovan. Do Ovan rất ít xuất hiện trong game nên Shino gần như trở thành một người lãnh đạo thật sự và quyết định hầu hết mọi chuyện trong Guild , cô cũng đã từng gặp mặt Masato (Ovan) ngoài đời thật và rất thân với anh ta. Sau bi kịch trong Roots và trở thành một Lost One, Ryou Misaki luôn đến thăm cô mỗi ngày trên giường bệnh. Shino ngoài đời thật Kojirou Nakamura (Phyllo) : Phyllo là một PC rất bí ẩn, người chơi thường thấy ông ngồi trên cây cầu Root Town tại Mac Anu mỗi ngày trong The World. Ông có kiến thức rất uyên bác về thế giới của The World và là người đã cho Ovan biết mọi sự thật về "Key of The Twilight". Ngoài đời, Kojirou đã 62 tuổi, ông sống đơn độc với các thú nuôi và xem chúng như gia đình duy nhất của mình. Sự thật, Kojirou đang mắc bệnh ung thư thời kì cuối và ông quyết định dành hết thời gian ít ỏi còn lại của mình tham gia The World để giúp đỡ mọi người. Phyllo rất có hứng thú với Haseo ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên và luôn động viên an ủi cậu sau mọi bi kịch với Guild "Twilight Brigade". Ông là PC duy nhất đối đầu với "Tri-Edge" mà vẫn còn bảo tòan tính mạng và cũng là người duy nhất được Ovan kể lại toàn bộ sự thật về sự kiện tại nhà thờ Hulle Granz Cathedral . Ông rất muốn được tận mắt chứng kiến một Haseo trưởng thành và chính chắn nhưng rất tíêc giấc mơ đó đã không bao giờ trở thành hiện thực, Kojirou đã mất vào cuối anime Roots . Phyllo cũng có một câu nói rất hay và ý nghĩa : "Today is the same as yesterday. Tomorrow is the same as today. Did you think that would last forever?" Phyllo sẽ mãi mãi là một huyền thoại của DotHack Takumi Hino (Naobi,Yata) : Sau sự kiện Ovan bị AIDA tấn công khiến cánh tay trái trở thành "Tri-Edge" (luôn bị che đậy bằng một chiếc hộp khổng lồ có khóa sắt) và biến mất một cách bí ẩn thì Naobi đã thành lập Guild TaN - một Guild chuyên giao dịch thông tin và item trong The World với mục đích thật sự là cài bẫy và bắt sống Ovan để nghiên cứu mọi thông tin về "Tri-Edge". Kế họach thành công sau đó nhưng trong tiến trình thí nghiệm khi mở chiếc hộp lại phát sinh đột biến bất ngờ từ AIDA khiến Ovan trốn thóat. Lúc này, Takumi Hino từ bỏ PC Naobi, giải tán TaN và tiết lộ thân phận thật sự của mình là một Administrator dưới quyền CC.Corp có nhiệm vụ quản lý kiếm sóat The World cũng như tìm kiếm sự thật về AIDA qua PC chính là : Yata. Ngòai đời, Takumi yêu thích việc công việc kiếm tiền giao dịch qua Internet và là một trong những hacker giỏi nhất của CC.Corp , anh cũng đam mê bóng đá nhưng giấc mơ trở thành cầu thủ chuyên nghiệp đã tan vỡ sau một tai nạn thời trung học. Admin Yata trong anime Roots Tomonari Kasumi (Kuhn) : Tomonari Kasumi chính là chủ nhân của PC Sieg trong The World phiên bản cũ vào năm 2007. Vì muốn giới thiệu cho bạn gái của mình là Mai Minase cùng tham gia nên Tomonari đã tạo giùm cô một PC nhưng ngay lần phiêu lưu đầu tiên của cả hai trong The World, họ đã chạm trán Phase "Skeith". Tomonari sau đó bị đánh bại và Data Drain trở thành một Lost One như Ryou Misaki (Sora). 8 năm sau anh lập ra PC Kuhn trong The World:R2 với niềm vui chính là giúp đỡ mọi người cùng chơi , đặc biệt là những người lần đầu tham gia vào game. Và đó cũng là lý do anh lập ra Guild Canard cùng hai thành viên khác là Gaspard và Silabus. Nhưng sau này, khi phát hiện ra mình là một Epitaph User và đã Awaken (thức tỉnh) thì Kuhn quyết định từ bỏ Canard để tránh làm liên lụy bạn bè và tham gia Guild Raven của Yata (thật chất là tổ chức "G.U" của các Epitaph Users nhằm tiêu diệt AIDA) . Ngoài đời Tomonari đã 24 tuổi và làm việc part-time cho CC.Corp, anh có một sở thích khá độc đáo là tán tỉnh, làm quen với giới nữ (từng tiết lộ với Haseo đang sở hữu tới 972 địa chỉ email các bạn gái trong cell phone của mình và mong muốn Pi sẽ trở thành đối tượng thứ 1000). Tomonari và Mai Reiko Saeki (Ender,Pi) : Ender là một trong 3 thành viên cấp cao của Guild TaN dưới quyền Naobi. Sở thích của cô không gì khác hơn ngoài việc sưu tập những vũ khí quý hiếm trong The World và được tự tay PK những PC mạnh mẽ (đó là lý do cô không PK Haseo từ những lần gặp gỡ đầu tiên khi cậu ta còn ở một lv ... quá thấp). Ender cũng là thủ lĩnh của "Black Ops", tổ chức tập họp những tay PKer cấp cao chuyên phục vụ cho Naobi. Trong Roots, cô từng nhận lệnh của Naobi đi PK tất cả những thành viên trực thuộc Twilight Brigade nhằm phá hoại , ly gián và cuối cùng là đưa Ovan vào bẫy. Sau khi đã đạt được mục đích, Reiko vứt bỏ PC Ender và tiết lộ thân phận thật sự của mình là một Administrator, trợ tá đắc lực của Yata với PC chính là Pi. Ngoài đời Reiko Saeki chính là em gái của Jun Bansyoya (một trong những lãnh đạo của dự án tối mật G.U năm 2015) và cô đã quyết định gia nhập CC.Corp với mục đích thật sự là tìm ra nguyên nhân cái chết của anh mình, có lẽ cũng vì thế mà Phase của cô - Tarvos sở hữu một sức mạnh mang tên: "The Avenger" Pi - Epitaph User sở hữu Tarvos Moe Kubo (Tabby) : Shino chính là người đầu tiên đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ Tabby từ những lần cô mới chập chững bước chân vào game. Và vì thế cô đã quyết định gia nhập Twilight Brigade hy vọng có thể học được những điều mới mẻ về The World. Cá tính hồn nhiên, hoạt bát và luôn lạc quan yêu đời, đôi lúc Tabby khiến những người xung quanh cảm thấy rất khó chịu, đặc biệt là Sakisaka , người phải dành hết thời gian rảnh rỗi để hướng dẫn cô và nhiều lần họ đã cùng bị Ender của TaN chặn đường và PK. Ngoài Shino, Tabby còn rất quan tâm đến một thành viên khác trong Guild chính là Haseo, người gia nhập cùng thời điểm với cô nhưng luôn hoạt động đơn lập và rất ghét bị làm phiền bởi người khác. Sau bi kịch của Twilight Brigade, Tabby đã chịu đựng một cú sốc rất lớn và Sakisaka chính là chỗ dựa duy nhất còn lại của cô, họ đã cùng nhau thành lập Guild Paw Pad Squadron nhưng cũng không duy trì được lâu sau khi Sakisaka quyết định bỏ game. Trong suốt khoảng thời gian đơn độc còn lại, Phyllo luôn động viên an ủi cô và với sự giúp đỡ của hai người bạn mới Seisaku và Hideyo, Tabby cuối cùng cũng tìm được mục tiêu giúp cô tiếp tục phấn đấu chính là để bảo vệ và giúp đỡ Haseo . Ngoài đời, Moe Kubo luôn chịu áp lực rất lớn từ gia đình khi luôn bị đem ra so sánh với người chị gái thông minh của mình và cô đã quyết định sẽ trở thành một y tá thật giỏi để có thể chữa lành căn bệnh cho Shino, lúc này đã trở thành một Lost One. Moe cũng thường ghé thăm Shino trên giường bệnh và đã từng gặp Ryou Misaki (Haseo) nhưng cả hai đều không biết mặt nhau. Tabby luôn quan tâm đặc biệt đến Haseo Shinnosuke Sakamuki (Sakisaka) : Sakisaka là một trong những thành viên gắn bó lâu dài với Twiligh Brigade sau Shino và anh rất thích một cuộc sống tự do, không ràng buộc có thể làm tất cả những gì mình thích trong The World. Khi Tabby gia nhập, bất đắc dĩ Sakisaka đành trở thành thầy giáo và vệ sĩ của cô trong khi một thành viên khác là Haseo lại được sự quan tâm và ưu ái đặc biệt của Ovan và Shino. Điều này đôi lúc khiến anh cảm thấy mặc cảm và ghen tị . Tawaraya - thành viên cao cấp của TaN lúc này nắm bắt được yếu điểm ấy và giao dịch một viên Virus Core mà Twilight Brigade đang tìm kiếm cho Sakisaka khiến Haseo trở thành nghi phạm ly gián nội bộ Guild. Nhưng khi anh và Tabby bị Ender truy sát thì Haseo đã bất chấp tất cả kịp thời ra tay ngăn chặn khiến anh cảm thấy rất ân hận và quyết định chấm dứt mọi quan hệ với TaN. Ngòai đời thật, Shinnosuke đã 19 tuổi và sau khi nghe bạn bè giới thiệu về một game đang nổi tiếng khác là "Riot Gun", anh đã quyết định chia tay Tabby và nghỉ chơi The World. Nina Kircheis (Bordeaux) : Nina Kircheis là một cô gái 14 tuổi xinh đẹp mang dòng máu lai giữa người cha gốc Đức và người mẹ Nhật Bản. Khi lên mươi, cô đã phải gánh chịu nhiều bất hạnh khi tận mắt chứng kiến bi kịch tan vỡ của gia đình và kết quả là phải đến sống riêng với mẹ tại Toyama, Nhật Bản nơi luôn mang lại cho cô nhiều căng thẳng và áp lực. Sau khi phát hiện ra MMORPG The World, cô hy vọng sẽ có thể trút bỏ hết những gánh nặng trong cuộc sống tại đây và quyết định tạo ra PC: Bordeaux. Trong game , Bordeaux gia nhập Guild Kestrel với sở thích lập dị là chuyên săn lùng và PK những PC xấu số mới chập chững tập chơi hay còn ở một level rất thấp cùng hai trợ thủ đắc lực là Negimaru và Grein. Sau sự kiện Haseo trở về từ Forest of Pain và bắt đầu nổi tiếng với danh hiệu "PKK" , Bordeaux là một trong những người đã khởi xướng và thách thức Haseo vào cạm bẫy bị mai phục bởi hơn 100 tay PKer muốn tạo dựng tên tuổi. Nhưng kế họach không chỉ thảm bại hòan tòan mà còn đánh bóng thêm cho tên tuổi của Haseo với nickname khét tiếng "The Terror of Death" và nhóm của Bordeaux sau đó cũng bị Haseo chặn đầu PK không thương tiếc. Nina khi trở thành Lost One và hôn mê trên giường bệnh Keisuke Kurokai (Taihaku) : Taihaku là Guild Master của Icolo, một trong những Guild hùng mạnh nhất The World với điều kiện gia nhập là chỉ dành riêng cho những PC đã và đang nắm giữ chức vô địch tại các võ đài PvP: "Arena Palace". Taihaku rất coi trọng thực lực của bản thân và ông đã quyết định tham gia sự kiện "Forest of Pain", một sự kiện cực kì nguy hiểm với tất cả mọi PC trong game và nằm ngoài tầm kiểm soát của CC.Corp. Kết quả, Taihaku là người đầu tiên vượt qua thử thách này (người còn lại chính là Haseo) và sau khi đến căn phòng bí mật chứa đựng AI của Harald Hoerwick (cha đẻ của The World) , ông đã được ban tặng một thanh bảo kiếm với sức mạnh tuyệt luân. Taihaku cũng rất khâm phục cá tính của Haseo và đã trao lại thanh kiếm này cho cậu vào gần cuối dòng game .Hack//G.U. Taihaku - Guild Master of Icolo Junya Murakami (Tawaraya,Tohta) : Tawaraya là thành viên cấp cao cuối cùng của Guild TaN , là người trực tiếp điều hành công việc quản lý trao đổi buôn bán trong guild . Trong game , Tawaraya là nhân vật lộ diện nhiều nhất của TaN (Ender và Naobi không bao giờ xuất hiện ngoài Town) và được nhiều người biết đến nhờ tài thao lược sắc sảo và óc tính toán siêu việt nhưng cũng không kém phần nham hiểm . Vì thế Tawaraya được lãnh hai trọng trách rất quan trọng là thuyết phục Haseo về đầu quân cho TaN và theo dõi mọi hoạt động thường trực của Twilight Brigade (đặc biệt là Ovan). Kế hoạch đầu tiên thất bại nhưng Tawaraya nhanh chóng vẽ nên thủ đoạn làm sụp đổ niềm tin lẫn nhau của các thành viên Twilight Brigade khi tiến hành giao dịch ngầm một viên Virus Core với Sakisaka mà sau này người bị nghi ngờ lại chính là Haseo với hành vi cấu kết với TaN. Tuy nhiên bức màn tối này cũng không duy trì được lâu sau khi Sakisaka thừa nhận toàn bộ sự thật và trực tiếp khiêu chiến với TaN. Tuy hết lòng trung thành và gắn kết với Guild nhưng đến một ngày Tawaraya không thể nào ngờ vai trò thật sự của mình trong TaN chỉ là một con cờ thí không hơn không kém của Naobi , sau khi kế hoạch bắt sống Ovan thành công , TaN chính thức giải thể và PC Tawaraya ngay sau đó bị quy vào tội giao dịch hàng hóa trái phép trong game và phải lãnh án ban (đình chỉ) account vô thời hạn từ hội đồng Game Master . Sau đó , Junya tạo ra PC mới: Tohta và quay trở lại The World R2 khi bàng hoàng nhận ra rằng nền kinh tế nơi đây đã hoàn toàn sụp đổ sau sự ra đi của TaN , một số người chơi tự do giao dịch hàng hóa bằng tiền thật. Tohta quyết định lập ra kế hoạch săn lùng và tiêu diệt tổ chức "Làm tiền thật" này và thành công với sự theo dõi từ phía các Admin (lúc này là Yata và Pi đã lộ thân phận thật sự). Khi phát hiện ra bi kịch của Twilight Brigade và sự nông nỗi của Haseo , Tohta đã quyết định tiếp tục ở lại game để giúp đỡ Haseo cũng như các thành viên khác còn sót lại (Tabby , Sakisaka). Vào cuối Roots , Tohta chính là người được Phyllo giao lại trọng trách nhắn nhủ về số phận ngắn ngũi của ông và tiếp tục chăm lo cho sự trưởng thành của Haseo. Sau lời nhắn cuối cùng ấy , Phyllo đã ra đi mãi mãi và Haseo cũng đã thật sự vứt bỏ được những gánh nặng thầm kín trong lòng , còn Junya dù không muốn cũng đã quyết định nghỉ game vì còn phải lo chuẩn bị hành trang cho chuyến du học ngoài đời sắp tới của mình. Tohta cũng là người đã đặt tên cho các dấu hiệu của Tri-Edge để lại là "Sign" Tohta vào cuối Roots Phần 4 : .Hack//G.U Recap Chapter 1 : .Hack//Roots - Cuộc gặp gỡ định mệnh Chapter 2 : .Hack//G.U Vol 1: Rebirth - Thức tỉnh Chapter 3 : .Hack//G.U Vol 2: Reminisce - Sự Thật Chapter 4 : .Hack//G.U Final Chapter: Redemption - Lời Hứa Phần 5 : Timeline of the .Hack - Các cột mốc thời gian quan trọng ------------------------------------------ *** Xin lưu ý : Một số sự kiện được đề cập theo tên series (Anime/Game/Manga/Novel) là các sự kiện phát sinh riêng biệt không có ảnh hưởng trực tiếp đến thế giới thực của DotHack và The World , không nằm trong bộ khung chính của DotHack (.Hack//Games và .Hack//G.U) Cuối thế kỉ 20 _Bộ quốc phòng Mỹ bắt đầu nghiên cứu và phát triển ARPANET , được xem như nền tản của hệ thống Internet sau này. _Năm 1999 , khắp nơi trên thế giới đã có thể truy cập vào Internet , đánh dấu một bước nhảy vọt của nhân loại. Đầu thế kỉ 21 _Cơn sốt Internet toàn cầu ngày càng gia tăng tỉ lệ thuận với tệ nạn tin học , hacker mũ đen mọc lên và tấn công hệ thống mạng khắp nơi trên thế giới . Ngay cả những thông tin mật của chính phủ cũng có thể dễ dàng bị xâm nhập và tiết lộ . 2002 _Tổ chức hệ thống mạng thế giới (WNC - World Network Commisson) chính thức thành lập 2003 _WNC họp hội nghị lần đầu tiên _Một virus mang tên "Hello WNC" ra đời và thâm nhập vào hơn 10,000,000 máy tính cá nhân _"Deadly Flash" - 1 virus cực kì nguy hiểm lần đầu tiên xuất hiện và là nguyên nhân gây ra những cái chết hàng loạt trên thế giới bởi những người truy cập vô tình bị lây nhiễm bởi nó. Tác giả của virus , 1 thanh niên quốc tịch Nhật Bản cũng là người đầu tiên bị kết án tử hình theo điều luật an ninh mạng của tổ chức WNC. 2004 _Tổ chức WNC siết chặc điều luật an ninh mạng hòng góp phần làm suy giảm tệ nạn tin học _Nữ thi sĩ Emma Wielant mất trong một tai nạn giao thông. Tác phẩm ưng ý nhất của cô - bài thơ "Epitaph of Twilight" đang vẫn còn dang dở nhưng đã bị tháo bỏ khỏi website. _Hệ thống bảo mật của kho bạc quốc gia Switzerland bị hacker phá hoại và hơn 84,000,000$ bị đánh cắp 2005 (Pluto's Kiss xuất hiện) _Sở giao dịch chính khoán New York bị hacker tấn công làm suy sụp thời giá gây nên một chấn động lớn trên toàn thế giới _Ngày 24-12 : Diễn ra sự kiện Pluto's Kiss , hầu hết máy chủ , máy tính cá nhân trên thế giới bị Shutdown trong 77 phút gây ra những thảm họa không tưởng với nhân loại . Tác giả của nó là một cậu bé hacker chỉ mới 10 tuổi sinh sống tại Los Angeles _Ảnh hưởng nghiêm trọng của Pluto's Kiss làm trì trệ mọi hoạt động kinh tế và tài chính khắp mọi nơi . Giao dịch và buôn bán qua mạng bị nghiêm cấm 2006 _Một thời kì được biết đến với tên gọi "Twilight of the New Gods" khai sinh với sự xuất hiện của các sản phẩm game video online _Tổng thống Mĩ Jim Stonecold từ chức sau ảnh hưởng từ thảm họa Pluto's Kiss _ALTIMIT OS , hệ điều hành duy nhất không bị tác động bởi Pluto's Kiss , được xem là miễn nhiễm với tất cả virus máy tính thời điểm hiện tại bắt đầu nổi tiếng hàng đầu trên thế giới _Một số nhân viên cấp cao của ALTIMIT rời bỏ công ty ra riêng và sáng lập ra CyberConnect Corporation (gọi tắt là CC.Corp) _Lập trình viên thiên tài người Đức mang tên Harald Hoerwick cho ra đời sản phẩm đầu tay Fragment và được đề cử với CC.Corp _Chức danh "The Commentator" xuất hiện và người chịu trách nhiệm trọng trách này sẽ là phát ngôn viên kiêm bình luận viên và tường thuật trực tiếp các sự kiện quan trọng của CC.Corp (Trong The World ta luôn thấy ông ta là người chuyên bình luận các trận đấu trong Battle Arena) 2007 (The World ra đời) _ALTIMIT cho mở cửa 12 văn phòng chi nhánh khắp nơi trên thế giới , trụ sở chính đặt tại San Francisco _Junichiro Tokuoka bắt đầu tiến hành Nhật hóa phiên bản Fragment của Harald , trợ lý đắc lực của ông là Kazushi Watarai (sau này là lãnh đạo của Cobalt Knights, đội ngũ chuyên debug game) _Tháng 5 : Khởi động Beta test cho Fragment . Nhanh chóng trở thành đề tài bàn luận nóng bỏng nhất của giới game thủ lúc bấy giờ _Tháng 6 : Harald Hoerwick đột nhiên mất tích . Quá trình thử nghiệm game phải kết thúc ngoài dự định _WNC ban bố điều luật áp chê tất cả máy tính cá nhân trên thế giới đều phải sử dụng hệ điều hành ALTIMIT _24 Tháng 12 : WNC tổ chức ngày hội mang tên "Virgin's Kiss" , các điều luật khắc chế và nghiêm cấm trong việc sử dụng Internet trước nay được bãi bỏ. Fragmant chính thức mang tên The World và phát hành rộng rãi trên thế giới với doanh số download vượt mức 100,000 lượt chỉ trong ngày đầu tiên. _Thời kì "Twilight of the New Gods" chấm dứt với sự xuất hiện của The World 2008 .hack//Intermezzo (flashbacks) :Mimiru lần đầu gặp gỡ Mimika khi đang thám hiểm một hang động bí ẩn (unbalanced dungeon) trong The World. 2009 .hack//AI Buster: _Kazushi Watarai lần đầu đụng độ một Vagrant AI : Lycoris (chính là nguyên mẫu của Ultimate AI Aura) và tìm cách delete nó trong khi đang debug game. _Hai PC Balmung và Orca hoàn thành event The One Sin - event khó nhất trong The World và được xưng tụng là "Descendants of Fianna" 2010 (Pluto Again tái diễn đánh dấu sự hồi sinh của Aura) .hack//2nd Character: Haruka Mizuhara (lúc này đang sử dụng PC Hakoto) gặp gỡ Albireo (chính là PC của Kazushi Watarai) .hack//SIGN: PC Tsukasa mắc kẹt bên trong thế giới The World .hack//Wotan's Spear: Kazushi Watarai đụng độ Vagrant AI : Macha. .hack//ZERO: Carl gặp gỡ một PC kì lạ tại Hulle Granz Cathedral trong Δ Hidden Forbidden Holy Ground (và PC đó chính là Sora - Pker khét tiếng của Ryou Misaki năm 10 tuổi mà sau này chính là người điều khiển PC Haseo huyền thoại của chúng ta đó các bạn ) .hack//Intermezzo (non-flashbacks): Mimiru trở lại hang động bí ẩn (unbalanced dungeon) cùng với Bear. _Pluto Again, còn được xem là thảm họa mạng toàn cầu lần thứ 2 (Second Network Crisis) sau Pluto's Kiss lại tái diễn .hack//Games: Kite bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân khiến bạn thân của cậu - Yasuhiko rơi vào trạng thái coma (The Lost One) .hack//Another Birth: Akira Hayami tạo nhân vật và tham gia vào The World nhằm tìm hiểu nguyên nhân khiến anh trai của cô - Fumikazu rơi vào trạng thái coma .hack//Liminality: Junichiro Tokuoka tiến hành điều tra các vấn đề kì lạ phát sinh trong game The World và liên hệ với một PC có nickname: Sieg (chính là của Tomonari mà sau này là chủ nhân của PC Kuhn trong .Hack//G.U) _24 Tháng 12 : Pluto Again chấm hết với sự hồi sinh của Aura. 2011 _Kazushi Watarai từ chức và rời bỏ CC.Corp _Thời kì Vàng Son ("Golden Age") của The World bắt đầu 2013 _Balmung chính thức công việc tại CC.Corp _# .hack//Kamui: Saki Shibayama được bổ nhiệm làm tân lãnh đạo của Cobalt Knights (sau sự ra đi của Kazushi), cô bắt đầu chiến dịch truy lùng và delete các Vagrant AI trong The World 2014 (Aura mất tích) _.hack//Firefly: Hotaru lần đầu login vào The World server Nhật Bản _.hack//Legend of the Twilight (manga): Shugo Kunisaki và người chị gái song sinh Rena Kunisaki chiến thắng sự kiện "limited edition .hackers character models" của Aura với phần thưởng là hai PC mô phỏng theo Kite và BlackRose (nhưng ở hình dạng Chibi) _Thành phố Naval Monte ra mắt trong thế giới The World và chỉ xuất hiện trong một dịp hè _24 Tháng 12 : Toàn bộ hệ thống của The World bị crash , phát sinh ra vô số lỗi trải rộng trên hệ thống Internet khắp mọi nơi trên thế giới , Aura biến mất !. Thời kì vàng (Golden Age) của The World chấm dứt. 2015 (Dấu chấm hết của The World và Altimit OS , sự ra đời của The World:R2) _Bugs (lỗi dữ liệu) bắt đầu xuất hiện trong hệ điều hành Altimit _Jun Bansyoya được bổ nhiệm làm lãnh đạo của dự án tối mật G.U của CC.Corp (nhằm tìm lại Aura) _Jyotaro Amagi bắt đầu công việc mới tại CC.Corp _Mùa Xuân : PC Mia bị delete cho mục đích triết xuất dữ liệu của Epitaph từ cô _Mùa Hạ : Dự án G.U thất bại ngoài dự kiến , 80% dữ liệu của The Wold biến mất , Jyotaro Amagi tự châm lửa thiêu hủy và nhấn chìm mọi thứ tại văn phòng nghiên cứu CC.Corp. _Mùa Thu : Jun Bansyoya quay trở lại CC.Corp và nhận toàn bộ trách nhiệm về thất bại của G.U _24 Tháng 12 : The World:R2 và Altimit Mine OS chính thức ra mắt . 4 PC : Ovan, Kuhn, Endrance, Yata cũng được tạo ra vào thời điểm này 2016 2017 ___________________________ Mục Lục (Updated 26-10-2007) : Phần 1 - Sự ra đời của Project .Hack , "The World" và Altimit OS I./ Project .Hack II./ Altimit OS và 2 sự kiện Pluto (Network's Crisis) III./ The World IV./ Nguồn gốc của Aura (The Ultimate AI) , Project "G.U" V./ Jun Bansyoya , The End of The World Phần 2 : The World : Revision 2 I> Thuật ngữ "PK" , "PKK" , "Guild" , "The Lost One" II.> AIDA , AIDA PC , sự cố AIDA Server III.> The Azure Knights , "Sign" , The Lost Grounds , Vagrant AI (New) IV.> Key of the Twilight , The "Anti-Existence" Cubia Phần 3 : Câu chuyện về G.U I.> Cột mốc trước mọi sự kiện trong Roots II.> Số phận của các nhân vật Phần 4 : .Hack//G.U Recap Chapter 1 : .Hack//Roots - Cuộc gặp gỡ định mệnh Chapter 2 : .Hack//G.U Vol 1: Rebirth - Thức tỉnh Chapter 3 : .Hack//G.U Vol 2: Reminisce - Sự Thật Chapter 4 : .Hack//G.U Final Chapter: Redemption - Lời Hứa Phần 5 : Timeline of the .Hack - Các cột mốc thời gian quan trọng (New)
Giới thiệu về .hack Games Lưu ý : - Bài viết mang tính spoil cho nên nếu ai thực sự quan tâm và nếu không muốn làm mất hứng khi chơi thì có thể đọc phần I thôi - Có sử dụng 1 số tự liệu tại http://dothack.wikia.com/wiki/ Thông tin sơ lược về game .hack Infection : US Realease date : Infection: February 10, 2003 Japan Release Date : Infection: June 20, 2002 Europe Release Date : Infection : March 26, 2004 Gendre : Action RPG Rating : T Platform : PlayStation 2 Mode : Offline Single Player Phần I .hack//Infection I . Giới thiệu chung : .hack Infection là bản .hack games đầu tiên trong 4 bản .hack games, tại đây mọi người cùng tham gia vào game online giả tưởng lúc đó là The World ,. .hack Infection mang lại 1 cảm giác giống như 1 game online thực sự nếu như các bạn đã từng chơi thử. Trong The World này, có nhiều các lớp nhân vật như “Twin Blade, Heavy Blade, Blade Master, Wave Master, Long Arm ...” . Điều này mang tới những cảm giác rất mới cho dù .hack Infection thời đó là 1 game khá mới trên Ps2 và đồ họa không cao, tuy nhiên chúng ta hãy cảm thông 1 tý vì có thể nói rằng đó là game gần như đi tiên phong trên hệ Ps2 cho nên đồ họa của nó không đẹp. Hơn nữa nếu nhìn theo hướng tích cực thì đó không hẳn xấu. Cho dù battle System theo kiểu real time nhưng bạn có thể cảm thấy rõ các đòn tấn công trong game có tốc độ chỉ ở mức trung bình, các trận đánh cũng chỉ diễn ra khi bạn lại gần 1 vòng tròn màu vàng ( portal ) , và quái sẽ xuất hiện để tấn công bạn vì thế bạn sẽ không còn lo về random battle trong .hack Infection nữa và có lẽ vì thế mà lối chơi khá đơn giản và dễ nắm bắt . Tuy nhiên điểm nhấn chính trong .hack Infection lại chính là sự linh hoạt của người chơi trong chiến thuật. Nếu như ở các bản .hack về sau ( như .hack G.U) thì càng lúc bạn càng ít khi chú ý tới các thuộc tính của quái thì trong .hack Infection , bạn lại phải chú ý nhiều hơn tới thuộc tính của quái vật hay chiến thuật của bạn khi gặp các con quái vật khó chịu . Trận chiến sẽ đơn giản hơn nếu như bạn nắm bắt được những điều đó, thậm chí là nếu không chú ý thì bạn nhiều lúc sẽ phải bó tay trước những trận train quái đơn giản trong The World. Thực sự là độ khó của .hack Infection khá cao , bạn thường phải bỏ thời gian để train cũng như là đi kiếm thêm member address bằng cách làm giúp họ kiếm item ( giống như 1 kiểu side quest ). Hình thức tham gia forum giống như các game online hiện tại cũng được duy trì trong .hack Infection , điều này sẽ tốn của bạn không ít thời gian để chơi xong các bản .hack games . Trong The World hệ thống di chuyển cũng khá thú vị khi bạn phải kết hợp 3 từ khóa với nhau để tạo thành 1 Area , điều này tạo nên 1 thế giới vô cùng rộng lớn trong The World, hệt như chúng ta chơi game online thật sự vây. Âm thanh trong .hack Infection cũng phải nói là tuyệt vời khi nhạc ở trong thành phố khá nhẹ nhàng và nhạc nhanh , mạnh lúc khi bạn chiến đấu với quái vật. Tất nhiên là cũng không thể không đề cập tới cốt truyện sắc nét hấp dẫn và lôi cuốn , vốn là điểm nhấn của dòng game .hack. Story : Bối cảnh là vào trong game online : The World . Một người chơi bình thường là Kite tham gia The World theo lời mời của người bạn Yasuhiko - được mọi người biết tới như 1 player huyền thoại là Orca . Orca và Kite đã dùng tới 1 Area là Δ Bursting Over Aqua Field , và ở đây họ đã gặp Aura . Lúc ấy Aura đang định trao Book of Twilight cho Orca, tuy nhiên Orca và Kite đã gặp phải Skeith – The Terror Of Death – Phase 1 do Morganna tạo ra . Orca cố gắng bảo vệ Kite và mình nên đã bị chịu phải đòn Data Drain từ Skeith . Khi Kite sắp bị Skieth Data Drain tiếp thì lúc này một vật trên trời phóng xuống và Kite lập tức được đưa tới Net Slum và Aura đành phải trao cho Book of Twilight cho Kite, và cùng lúc đó Server của The World sụp đổ. Sau khi Kite sử dụng Book of Twilight, nhân vật của Kite biến đổi và trở thành Twilight Bracelet Cùng lúc ấy, khi mà Kite phát hiện ra Yasuhiko ở ngoài đời đã trở thành 1 coma, Kite lập tức post thông tin này lên Board của The World tuy nhiên đã bị xóa nhanh chóng và điều đó thôi thúc Kite muốn tìm hiểu chuyện gì xảy ra trong thế giới ảo này. Sau đó Kite log on lại vào The World và gặp BlackRose, cô đã ép Kite cùng cô tới Δ Hidden Forbidden Holy Ground , tại đây BlackRose và Kite đã gặp 1 Portal ở giữa nhà thờ Hulle Granz , và từ Portal bước ra 1 Data Bug. Tuy nhiên lúc ấy, 1 player là Balmung đã xuất hiện và giúp Kite, tuy nhiên sau khi Balmung tiêu diệt Data Bug thì nó chuyển sang 1 dạng khác với Hp là vô tận. Balmung cho dù lúc đó rất mạnh nhưng cũng không thể hạ được nó, đúng lúc ấy thì Kite khởi động Book of Twilight và Kite có thể sử dụng năng lực Data Drain . Với năng lực ấy, Kite dễ dàng biến Data Bug đó thành quái vật bình thường và Balmung có thể tiêu diệt được con Data Bug. Nhưng Balmung lại buộc tôi Kite là 1 hacker và làm giảm sút giá trị của The World, trong khi ấy thì BlackRose coi Balmung là 1 người vô ơn vì đã không cám ơn Kite đã cứu mạng anh ta . Bên trong nhà thờ, Kite nói chuyện với BlackRose về những gì xảy ra với Orca và BlackRose quyết định giúp Kite cứu Orca. Sau đó Kite còn làm quen với nhiều player khác như Mistral, Piros. Có lần Kite nhận được email từ C.C Corp – công ty phát triển The World rằng Kite đã trúng 1 phần thưởng từ “Level up Campaign” là Book of Law để tăng level, tuy nhiên khi Kite sử dụng thì hệ thống báo lỗi và không cho phép sử dụng. Kite không biết rằng đó là 1 item có khả năng xóa nhân vật của Kite , tuy nhiên Book of Twilight đã ngăn cẳn và bảo vệ Kite. Sau đó Kite tới Mac Anu và gặp Mia và Elk, Mia đã nhìn thấy Twilight Bracelet ( Book of Twilight) và vì thế Mia muốn kiểm tra năng lực của Kite ở Area Δ Boundless Corrupted Fort Walls , Kite đã làm theo và đã tới 1 Dungeon và tiêu diệt con Data Bug : Red Wyrm 1 mình . Vì thế Mia đã chỉ Kite cách sử dụng năng lực Gate Hacking của Twilight Bracelet và đồng thời cho Kite member address của Mia và Elk. Sau đó Kite gặp lại Balmung và Balmung hỏi Kite về quan hệ giữa cậu và Orca , về năng lực Data Drain khác người của Kite. Kite đã kể tất cả cho Balmung tuy nhiên Balmung bỏ đi và nói với Kite rằng năng lực của cái vòng của cậu cũng không khác gì năng lực đã biến Orca thành coma. Sau khi Balmung đi thì Helba – 1 hacker xuất hiện trước mặt Kite và nói rằng cậu đang bị theo dõi, và cậu phải cẩn thận trước 1 gã Admin tên là Lios.Sau 1 lần lên Board, Kite nghe tin đồn về 1 player giống như Aura ở Θ Quiet Eternal White Devil , Kite vội tới đó và gặp sự cản trở của admin tuy nhiên Kite vẫn tiếp tục vào sâu Dungeon để tìm kiếm nhưng không thấy gì . Khi quay lại, Kite gặp Mistral đang muốn mua 1 item từ 1 player là Apeiron nhưng Apeiron yêu cầu giá tới 9999Gp ! Apeiron đòi 9999Gp cho món đồ mà Mistral định mua ! Mistral dù có sở thích sưu tập item nhưng không đủ tiền để mua vì thế đã bỏ đi. Theo lời kể của Apeiron thì Book of Iron là 1 Item có thể kháng toàn bộ sát thương của 1 đòn tấn công với xác suât cao. Lúc đó, Apeiron vội quay sang Kite vừa tới và đề nghị bán với giá chỉ ... 999Gp ! Kite bực mình và không muốn mua item Book of Iron đó từ Apeiron tuy nhiên Apeiron ép Kite nhận lấy món đồ Book of Iron. Kite không biết rằng Apeiron chính là 1 nhân viên của C.C Corp đã dùng Book of Iron như 1 món item đặc biệt để xóa nhân vật Kite. Thật tiếc rằng kế hoạch của Apeiron không thành công vì Kite có sự bảo vệ từ Twilight Bracelet cho nên Kite đã không bị xóa mất nhân vật khi sử dụng Book of Iron mà hệ thống chỉ báo lỗi là không sử dụng được. Còn với Kite, giá của Book of Iron chỉ là 999Gp , tuy nhiên Kite vẫn không mua. Và Apeiron ép Kite phải nhận nó Tiếp đó Kite gặp lại Elk , lúc này Elk bảo rằng có 1 Data Bug ở Area ưa thích của Elk là Δ Plenteous Smiling Hypha và nhờ Kite tiêu diệt nó. Sau khi Kite tới Area đó thì nhận ra đó là 1 lời nói dối của Elk. Elk thực sự muốn Kite cho cậu ta Twilight Bracelet của Kite. Trước kia Elk và Mia rất thân nhau tuy nhiên sau khi Mia phát hiện ra Kite có Twilight Bracelet thì Mia hứng thú với việc của Kite hơn. Vì thế Elk nghĩ rằng nếu mình có Twilight Bracelet của Kite thì Mia và Elk sẽ lại thân thiết với nhau. Tuy nhiên , khi tới cuối dungeon của Area này thì Elk nhận ra Mia đang đánh nhau với 1 Data Bug là Killer Snaker. Sau khi cùng tiêu diệt nó, Elk nhận ra rằng Mia vẫn coi Elk như bạn bè thân thiết. Vì thế Elk không quan tâm tới Twilight Bracelet của Kite nữa. Rồi sau đó, ở trên Board của The World, có thông tin về 1 player là Meg muốn tìm 1 player là Alph nhưng không thể liên lạc được. BlackRose đã tìm cách liên lạc với Meg và hỏi Meg xem Area cuối cùng mà Alph đã tới là đâu. Meg nói rằng đã post thông tin đó lên Board của The World nhưng rất tiếc là nó đã bị xóa. Tới khi mọi chuyện có vẻ như mất dấu vết thì Kite được 1 hacker là Helba gửi tin nhắn và nói với Kite rằng Area đó là Θ Chosen Hopeless Nothingness. Tại Area này, Kite và BlackRose đã gặp phải Phase 1 là The Terror of Death – Skeith . Không có sự lựa chọn nào khác, Kite và BlackRose buộc phải đánh với Skeith. Sau 1 trận đấu dài với Skeith, Kite cuối cùng cũng Data Drain được Skeith. Tuy nhiên khi vừa Data Drain xong thì nền đá xung quanh nát vụn ra và 1 kẻ thù nguy hiểm nhất lúc ấy xuất hiện : Cubia Tái đấu với Skeith ! Và Kite đã thắng ở lần này sau khi Data Drain Skeith thành công ! Giới thiệu 1 số nhân vật trong .hack Infection Kite - Được biết đến như là 1 player với hình dáng khá trẻ . Bình thường Kite mặc quần áo màu xanh lá như nhân vật của cậu lúc đầu, tuy nhiên sau khi nhận được Book of Twilight thì trang phục của Kite có màu đỏ. Kite xuất hiện ở .hack Infection khi mới 14 tuổi . Class của Kite là Twin Blade và cậu là người sở hữu Twilight Bracelet, nó cho cậu 2 năng lực là Data Drain và Gate Hacking. Kite là người rất thẳng tính, cậu khá vui vẻ với mọi người và là người hay giúp đỡ người khác ( khác hẳn với Haseo của .hack G.U ). Kite có sở thích chơi bóng đá với bạn bè dù không ở trong đội tuyển chính thức. Kite thích đọc truyện khoa học viễn tưởng và thích ăn thịt bò hầm. Trong bản 4 bản .hack đầu này thì Kite chính là người hùng của The World. Bonus : Hình dạng của Azure Kite trong .hack//G.U cũng lấy từ Kite mà ra BlackRose - Tên thật của cô là Akira Hayami, là 1 Heavy Blade. BlackRose gặp Kite lần đầu và đã cãi nhau với cậu. Nhưng sau đó BlackRose muốn giúp cậu, sau đó 2 người cùng nhau đi khám phá những điều bí ẩn của The World BlackRose thường tỏ ra mạnh mẽ để che dấu nỗi sợ hãi của mình. Cô cũng là người hết lòng vì bạn bè. Mục đích và động lực giúp Kite của cô là do em trai cô là Kazu bị 1 Data Bug tấn công ở nhà thờ Hulle Granz và trở thành 1 coma, vì thế khi cô gặp Kite. Cô cũng nhận ra là Kite có hoàn cảnh giống như mình và cô quyết định cùng Kite đi tìm hiểu. Mia - Là 1 player có hình dáng là mèo với class là Blademaster, khá lạ với các nhân vật khác của The World. Tuy nhiên ngay từ lần đầu mới gặp Kite , cô đã phát hiện ra Twilight Bracelet cho dù lúc đó nó còn chưa hiện ra. Vì thế Mia thử thách Kite và Kite đã vượt qua được, Mia đã hướng dẫn Kite cách Gate Hacking để vượt qua các Area bị khóa mà không ai tới được ( Protected Area ). Mia thường hay gây sự với 1 thành viên khác trong số các thành viên của Kite là Piros. Bonus : Trong .hack//G.U Endrance sau khi bị nhiễm AIDA có 1 con mèo ở trên vai. Đó chính là hồi ức của Endrance về Mia do AIDA đã điều khiển cảm xúc của Endrance. Elk - Tên thật của Elk là Kaoru Ichinose, 13 tuổi và class của cậu 1 Wavemaster. Cậu thường xuyên đi với Mia và cậu có vẻ rất thích Mia. Elk chỉ tin tưởng Mia và thường hay bị sốc khi có người khác tỏ ra tốt với cậu. Elk gần như không tin tưởng ai ngoại trừ Mia. Nói thêm 1 chút là sau 4 bản .hack này thì Mia đã bị mất trí nhớ, tuy nhiên Kite và Elk hứa sẽ tạo lại 1 ký ức mới tốt đẹp hơn cho Mia . Vài năm sau, trong The World R:2 chính Elk là người tạo ra PC : Endrance Orca - Tên thật của Orca là Yasuhiko , 14 tuổi và là 1 Blademaster. Có thể nói Orca là người thân thiên và thường hay giúp đỡ người khác cho dù Orca đã ở level cao . Vì thế mà Orca được nhiều người biết tới ở trên The World, có lẽ vì hay giúp đỡ người khác hoặc vì Orca là 1 trong các The Descendants of Fianna . Orca được biết tới với danh hiệu Orca of the Azure Sea vì Orca và Balmung đã hoàn thành Event The One Sin, được coi là event khó nhất lúc bấy giờ. Bonus : Chỉ có Balmung mới là người tung đòn kết liễu The One Sin nhưng cả 2 cùng party và cả 2 người họ đã trở thành huyền thoại. Balmung - Là 1 Blademaster và ở tuổi 18. Balmung đã cùng Orca hạ được The One Sin và Balmung đã được tặng cho đôi cánh trắng. Vì thế đôi cánh trắng của Balmung là độc nhất vô nhị ( kể cả Azure Balmung trong .hack//G.U cũng có đôi cánh khác với Balmung ) . Balmung là người có tinh thần thượng võ cho dù đã bị Lios lợi dụng ở .hack//Mutation , tuy nhiên sau khi hiểu rõ về Kite. Balmung đã tin tưởng vào Kite và tham gia cùng Kite ở .hack//OutBreak. Bonus : Hokuto đã viết 1 bài thơ cho Descendants of Fianna : Damage done to the evil shaped one, too massive to compare. Balmung of the Azure Sky, Orca of the Azure Sea, together they gallop at full speed. In the depth of my bosom, your names shall remain. You are none other than the descendants of Fianna. Các lời khuyên khi chơi .hack Infection : - Hãy mang theo các bình tăng Speed khi di chuyển, nó sẽ giúp bạn đi lại trong dungeon đỡ mất thời gian hơn. - Nếu gặp quái vật quá mạnh, đừng nóng vội, hãy bình tĩnh đi train rồi quay lại sau - Khi sắp Data Drain quái vật, hãy lưu ý màu của Kite trước khi Data Drain để kiểm tra xem virus có khiến Kite gặp các effect có hại sau khi Data Drain hay không. Trong đó : • 0-25% spread rate: Blue • 26-50% spread rate: Green • 51-75% spread rate: Yellow • 76-99% spread rate: Orange • 100% spread rate: Red Các thuộc tính sau có thể bị gây ra nếu như Data Drain quá nhiều, tùy theo mức độ : • Party's HP and SP phục hồi • Party's HP and SP còn 1 • Physical Attack giảm • Physical Defense giảm • Physical Accuracy giảm • Physical Evasion giảm • Magical Attack giảm • Magical Defense giảm • Magical Accuracy giảm • Magical Evasion giảm • Duk Lei tác động lên toàn party • Dek Do tác động lên toàn party • Suvi Lei tác động lên toàn party • Ranki Lei tác động lên toàn party • Mumyn Lei tác động lên toàn party • Duk Lei tác động lên toàn party • Dek Do tác động lên toàn party • Suvi Lei tác động lên toàn party • Ranki Lei tác động lên toàn party • Mumyn Lei tác động lên toàn party • -200 EXP (có thể sẽ làm giảm level) • -400 EXP (có thể sẽ làm giảm level) • -600 EXP (có thể sẽ làm giảm level) • -800 EXP (có thể sẽ làm giảm level) • -1000 EXP ( giảm 1 level) • SYSTEM ERROR (Game Over luôn ) - Hãy chịu khó nuôi 1 con Grunty khi có thể, hãy cho nó ăn và nuôi nó lớn. Sau đó bạn sẽ có 1 con Grunty để di chuyển trên field rất thú vị - Luôn mang trong người party có khả năng đánh nhiều thuộc tính khác nhau , đề phòng gặp phải quái vật có elemental là gì thì dùng loại đối nghịch : Fire >< Water , Wood >< Earth , Thunder >< Darkness. Nếu không đủ người đánh nhiều elemental, hãy mua đồ có khả năng đánh elemental mà bạn thiếu - Hãy liên tục ra lệnh cho party của bạn , nếu không họ sẽ không biết sử dụng skill và đánh phép hay hồi máu hoặc ném item. - Hãy chịu khó Data Drain quái vật, bạn sẽ có nhiều item nhưng ít exp. Nếu bạn thiếu tiền có thể bán item vì đây là cách chủ yếu kiếm tiền trong game. Đây cũng là cách để bạn kiếm đủ 8 quyển Ryu Book và 1 dạng cao cấp hơn của Data Drain là Drain Arc ! - Hãy chịu khó giúp 1 số người trên Board lấy item, họ sẽ cho bạn member address của họ.
Phần II .hack//Mutation Giới thiệu chung : Developer: CyberConnect2 Publisher : Bandai US Release Date : May 6, 2003 Japan Release Date : September 19, 2002 Europe Release Date : June 18, 2004 Genre Action RPG : Mode Offline Single Player Rating : T Platform : Playstation 2 Media : PS2 Disc - Là phần tiếp theo trong .hack games . The World lúc này đã update thêm vài patch so với bản .hack//Infection . Và là phần nối tiếp theo cho .hack Infection, vẫn nối tiếp theo cuộc chiến của Kite và BlackRose về những điều bí ẩn trong The World Story Kite và BlackRose trở về từ Chosen Hopeless Nothingness sau khi họ chạm trán Cubia , họ quay trở lại Area đó nhưng nó đã bị lock. Khi ở thành phố họ găp Balmung và chia sẻ chút thông tin , Kite và BlackRose trở về thành phố Dun Loireag . Kite tiếp tục nhận được những phần thưởng kỳ quặc và 2 người họ nhận được tin nhắn hãy tới Soaring Sky Bounded Abyss nếu muốn biết thêm thông tin về những nạn nhân coma. Tại đây, Area này trắng tinh và Kite gặp phải rất nhiều administrator của The World tại đây. Một Adminstrator là Lios nói rằng Kite đừng cố gắng theo đuổi vụ này nếu không sẽ delete character của Kite cùng với Twilight Bracelet. Tuy nhiên 1 hacker là Helba đã can thiệp và nói rằng họ không thể bị delete vì có những dữ liệu bí ẩn trong character của họ. Helba thuyết phục Lios theo dõi họ thay vì delete họ , Lios đồng ý sử dụng cả Kite , BlackRose và cả những năng lực đặc biệt của Twilight Bracelet để điều tra các Area bị lỗi. Lios sẽ giả danh thành 1 Npc bán đồ ở thành phố và Kite phải thông báo thông tin mà cậu thu thập cho Lios tại đó. Kite phải đối mặt với rất nhiều administrator cùng 1 bản án delete character của cậu nếu không có sự can thiệp của Helba Lios nhờ 2 người họ điều tra 2 Area và 1 trong số 2 Area đó, Kite đã gặp 1 A.I là Sheraton và cho cậu Area Key Word : Resurrecting Confused Judgement. Mặc dù Lios ra lệnh không được làm gì, nhưng Kite và các người bạn vẫn tới Area và xuống Dungeon ở đó, họ chạm trán Phase 2 : Innis – The Mirage of Deceit ở đây. Kite và các người bạn của cậu hạ được Innis và Data Drain Innis và lấy được Segment 1. Tuy nhiên Innis sau khi bị hạ đã để lại 1 lỗi hệ thống lớn và cả 2 người phải chịu sự trách phạt của Lios Sau đó, Kite nhận được email từ Aura về Area là : Merciless Grieving Furnace. Kite gặp Mistral trước khi vào Area và cho cô vào party . Ở trong Dungeon , Kite kể cho Mistral về câu chuyện , lúc trước Mistral không tin lắm vào câu chuyện của Kite. Nhưng khi Mistral nhìn thấy Aura ở trong Dungeon thì cô tin vào câu chuyện của Kite . Tại đây, Kite trả mảnh Segment 1 cho Aura và cậu đột ngột bị tấn công bởi Cubia lần thứ hai. Tuy nhiên Kite và Mistral đã khiến Cubia phải rút lui, sau trận đấu cô sẽ giúp cậu trong tất cả khả năng có thể. Kite trả mảnh Segment cho Aura và Mistral cũng có cảm nhận riêng về Aura "she is .. not alive". Kite được Helba cho biết The World có liên quan tới bài thơ Epitaph of Twilight và từ trên Board, cậu biết 1 player là Wiseman có thể cho cậu thông tin nếu cậu gặp ông ta ở Dying Madness Haunted Land . Khi tới nơi, Wiseman nói rằng cái giá cho thông tin không hề rẻ và yêu cầu 1 cuộc trao đổi với Kite để có thông tin. Wiseman muốn Kite lấy cho ông 1 cái Spark Sword ở Blooming Promised Walkway . Khi Kite phát hiện Area này là 1 Protected Area ( Area bị khoá để player không vào được ) , Kite đánh phải sử dụng năng lực Gate Hacking của mình để vào trong Area và chiến đấu với 1 Data Bug ở đây và lấy Spark Sword . Kite đem Spark Sword đến gặp Wiseman để trao đổi, nhưng ông ta hỏi làm sao cậu vào được Area bị khoá ấy để lấy. Kite kể lại câu chuyện của mình cho Wiseman , ông đã cho Kite toàn bộ thông tin qua e-mail và tặng cho Kite chiếc Spark Sword cùng Member address của mình vì câu chuyện của Kite còn thú vị hơn cái Spark Sword. Trong email của Wiseman có đoạn : Unknown where the Cursed Wave was born… After the stars doth cross the heavens, The sky in the East doth darken and air doth fill with mourning. From the chosen land beyond the forest, a sign of the wave comes. Riding the wake is Skeith, the Shadow of Death, to drown all that stands. Mirage of Deceit, Innis, Betray all with the flawed image, and did aid the Wave. And by the Power of Magus, a drop from the Wave doth reach the heavens, and creates a new Wave. With the Wave, Fidchell, the power to tell the dark future, hope darkens, sadness and despair rule. Gorre schemes when swallowed by the Cursed Wave. Macha seduces with the sweet trap. Wave reaches the Pinnacle, and escape none can. Tarvos still remains with more cruelty to punish and destroy. And with the turbulent destruction after the Wave. Only a void remains. From deep within the void arrives Corbenik. Perhaps then the Wave is just a beginning as well. E-mail của Wiseman đã cho Kite biết rõ về tên của 8 Phase và trong đó Wiseman cũng cho Kite biết thần chú để vào được NetSlum . Được Balmung cho 1 Virus Core và thông tin từ Board của 1 player là Plaird, Kite và BlackRose tiến tới Pulsating Worst Core và có 1 đoạn trong Dungeon , Kite phải đi đúng như trong chỉ dẫn của Wiseman để tới được NetSlum. Một khu vực tập trung của rất nhiều dữ liệu hỏng. Kite đã gặp Helba -chủ nhân của NetSlum ở đây , và cậu cũng gặp Balmung. Helba nhận ra Balmung đã theo Kite và BlackRose để tới đây , Balmung quả quyết rằng mục đích cho những hành động mờ ám của mình là để bảo vệ The World . Helba nói rằng Balmung đã làm xấu hổ thanh danh của Descendants of Fianna vì hành động ngấm ngầm theo dõi Kite và đặt 1 câu hỏi cho Balmung : " "There's an order that The World desires, then there's the order that you desire. Which one should it take ?" Lúc này, Lios xuất hiện và nói sẽ delete cả NetSlum lẫn party của Kite . Nhưng trước khi Lios kịp làm được thì thì Phase 3 – Magus : The Propagation xuất hiện và tấn công . Balmung, Lios và Helba phải rút lui, Kite và party của cậu phải chiến đấu với Magus và đã Data Drain nó thành công.. Khi Kite và BlackRose quay trở lại thành phố thì họ nhận ra những lỗi dữ liệu ở các Protected Area đã lan tới khắp các server của The World. Giới thiệu 1 số nhân vật : Helba Helba là 1 hacker chuyên nghiệp trong The World R:1 và sở thích của cô là chơi các trò chơi trí tuệ hay hacking. Helba hay đi tìm những dữ liệu đã bị xoá và có những hiểu biết về Epitaph of Twilight. Helba có mặt nạ che kín nửa phía trên , điều đó khiến Helba tỏ ra khá trầm tính, và tin tưởng vào những gì cô ta làm. Wiseman Là 1 Wavemaster với bộ đồ đen và đỏ, trông có vẻ đã khá già. Hiểu biết của Wiseman có vẻ cũng khá nhiều như cái tên. Biểu tưởng trên trán của Wiseman khá giống như biểu tượng trên mũ của Kite. Wiseman có sở thích đi thu thập thông tin và trao đổi nó với nhiều player và có vẻ tham lam nhưng thường thể hiện nó 1 cách gián tiếp. Mistral Là người đầu tiên vào party của Kite và BlackRose ở .hack//Infection. Có vẻ hơi vụng về vì cô thường để thức ăn cháy khi đang chơi The World, cô thích chung party với Kite vì những năng lực đặc biệt của Kite . Lúc đầu cô thiếu cảnh giác với những sự thật bên trong The World cho tới khi cô gặp Aura. Class của cô là Wavemaster với bộ đồ màu trắng, tóc tím và mắt đỏ. Mistral có tính cách khá vui vẻ và là người đáng tin cậy . Nhưng cô có phần trẻ con cho dù cô đã ... 20 tuổi và đã là 1 người vợ. Sở thích ăn đồ ngọt của cô vẫn còn cho tới khi cô có thai. Ở đầu phần .hack//Outbreak , Mistral rời khỏi nhóm của Kite vì cô đang ... có thai , và để bảo vệ đứa con chưa sinh ra thì cô muốn rời khỏi The World. Tuy nhiên, để biến bảo vệ The World và biến nó thành 1 sân chơi cho con của cô sau này, Mistral đã quay lại party của Kite trong trận chiến cuối cùng. Lios Là 1 Administrator của The World , khi thấy Kite có khả năng gây nguy hiểm tới sự an toàn của The World . Lios cố tìm cách delete Kite không biết bao nhiêu lần nhưng đều thất bại do Twilight Bracelet đã bảo vệ Kite . Lios thuê Balmung để tiêu diệt Kite , nhưng sau này Balmung tin tưởng vào Kite hơn vì thế Balmung đã gia nhập cùng với party của Kite. Vài điều gợi ý khi trong .hack//Mutation- Khi gặp Cubia ở phần này, nó có 2 trạng thái là Null Magical và Null Physical .Nó sẽ tạo các Cubia Core để tấn công bạn. Có khoảng 5 Cubia Core, hãy tập trung tiêu diệt Cubia Core : Repth trước vì nó hồi máu cho Cubia rất nhanh. Sau đó hãy diệt các Cubia Core còn lại , khi nó ở dạng Null Magical thì hãy dùng các đòn vật lý tấn công liên tục vào nó ( sử dụng Kite hoặc BlackRose ) và khi nó ở dạng Null Physical thì tấn công ma thuật vào nó ( sử dụng Mistral vì trận này Mistral chắc chắn có trong party của bạn ) Cứ mỗi lần hết Cubia Core thì Cubia sẽ chuyển từ dạng Null Physical sang Null Magical rồi ngược lại . Bạn có thể đừng tiêu diệt hết Cubia Core ( để lại khoảng 1 cái Cubia Core yếu ) để tấn công phần Main Cubia nếu bạn không muốn Cubia đổi 2 dạng Null quá nhiều lần. - Khi gặp Phase : Magus , nó sẽ rụng các cái lá xuống , hãy phá những cái lông này thật nhanh trước khi nó đếm từ 10s về 0s, nếu không Magus sẽ tung 1 cú Death and Rebirth có thể khiến cả party bạn tử nạn. Sau khi tiêu diệt được 1 số lá thì Magus sẽ chuyển sang các đòn khác và bạn tích cực sử dụng skill tấn công nhiều thì chiến thắng không phải là khó. Vì Magus là 1 Phase khá chậm nếu so với Skeith cực nhanh. - Hãy tới Hidden Forbidden Holy Ground đủ 4 lần trong bản này, bạn sẽ nhận được cái item có tác dụng tăng max Hp và chỉ số rất nhiều. Đồn thời bạn sẽ xem được các đoạn movie ngắn và các data của Twin Blades, Heavyblade , Blademaster và Wavemaster. Đông thời bạn sẽ thấy ký ức của 1 số người tại nhà thờ Hulle Granz, trong đó có 2 đoạn phim của Sora - tức là Haseo trong .hack//G.U . Đừng bỏ lỡ nhé !
Phần III .hack//OUTBREAK Giới thiệu : Là phiên bản thứ 3 trong loạt 4 bản .hack games. Viết về câu chuyện tiếp theo của Kite và các bạn của cậu trong The World R:1 U.S Releash Date : 9/9/2003 Japan Releash Date : 12/12/2002 Europe Releash Date : 12/10/2004 Thể loại : Action RPG Chế độ chơi : Offline Single Player Rating : T Platform : Ps2 Story Lỗi dữ liệu lan tới cả thành phố Cultural City Carmina Gadelica của Server Lambda Kết thúc cuối phần II, khi mà lỗi dữ liệu đã lan tới cả thành phố. Kite và BlackRose hơi hoang mang khi thấy cảnh tượng này. Kite gặp Mia ở thành phố và có vẻ Mia trông như rất mệt mỏi và không muốn tham gia với Kite. Tại Mac Anu thì Mistral nói rằng không thể tham gia chiến đấu với Kite vì đang có con. Cô không thể mạo hiểm tính mạng con của mình vì thế không tham gia với Kite trong cuộc hành trình được. Kite lúc này tự nghi ngờ về những việc mình làm không biết liệu chúng có đúng đắn, BlackRose nổi giận với Kite về việc này và nói rằng phải tiếp tục. Lúc này, Kite tiếp tục tìm thêm manh mối và cậu đã tới Σ Chatting Snaring Twins và tại tầng cuối cùng của Area này, cậu đã gặp Balmung. Balmung lúc này đang chiến đấu 1 mình với 1 Data Bug, Kite đã giúp Balmung tiêu diệt nó. Sau đó 2 người nói chuyện và nhận ra rằng , họ cần chung sức để phục hồi lại The World. Balmung đã cho Kite member address của mình. Sau đó Balmung đã đưa Kite tới 1 căn phòng trắng có cả ngàn cánh bướm trong ấy Khi Kite và Balmung đồng ý hợp sức, họ đã làm thế vì họ hiểu để phục hồi lại The World không thể chỉ cần 1 người. Sau đó, khi trở lại từ Dungeon, BlackRose nói muốn gặp Kite tại nhà thờ Hulle Granz . Kite đã gặp BlackRose ở đó và biết về bí mật của cô. Em trai của BlackRose là Fumikazu đã trở thành 1 coma khi đang chơi The World và cô muốn tìm hiểu mọi chuyện với em trai của mình. Cô chỉ biết dựa vào Kite để tìm hiểu sự thật và trách móc Kite rằng tại sao cậu lại nghi ngờ vào bản thân khi cô cần cậu nhất. Kite đã hiểu ra và tiếp tục hành trính của mình Nhà thờ Hulle Granz và bức tượng của Aura, Kite lại tiếp tục nhiệm vụ của mình ở đây Kite lúc này nhận được tin từ Wiseman và nói rằng Kite cần sự trợ giúp của Helba để biết sự thật . Kite nhận tin nhắn từ Helba rằng sẽ giúp nếu như Kite qua được 1 bài kiểm tra. Helba muốn Kite 1 mình tiêu diệt 1 Data Bug ở Σ Tested Quicksilver Valkyrie . Kite đã làm được và vì thế Helba giữ lời hứa sẽ giúp Kite. Helba gửi cho Kite và BlackRose nói rằng có 1 Phase đang ở Turbulent Distrusting Ice Wall . Cả 2 người bọn họ đã gặp Phase 4 : Fidchell:"The Prophet" tại đây. Sau 1 cuộc chiến dài, họ đã chiến thắng và Data Drain được Fidchell. Kite nhận được mảnh Segment thứ 2 của Aura. Sau khi Data Drain nó thì the World lại bị lỗi server 1 lần nữa giống như các lần khác. Kite được Lios ra lệnh tiêu diệt Data Bug ở đây Σ Rising Implacable Sipping Bug. Lúc này, Kite được Lios cho biết rằng sự phá hủy và mục nát đang dần xảy ra với The World và có thể biến nó thành 1 con Virus. Lúc này, C.C Corp có ý định phá hủy các Server của The World để tránh chuyện đó xảy ra. Kite hiểu rằng cậu cần phải nhanh hơn , trước khi chuyện đó xảy ra. Vì nếu các Server của The World bị phá hủy thì mối liên kết giữa các coma và The World cũng sẽ không còn và họ có thể không bao giờ tỉnh lại. Sau khi Log Out và Kite nhận được 1 email của Aura, dù rằng cậu không thể đọc được tất cả nhưng cậu hiểu cậu phải tới Server Sigma. Và khi tới đây, cậu nghe thấy giọng nói của Aura trong đầu và bảo rằng phải tới Σ Merciless Grieving Furnace. Tại đây, Lios thấy Kite trả mảnh Segment thứ 2 cho Aura. Và cũng giống như lần trước, Cubia xuất hiện và tấn công party của Kite, và lần này dù Cubia mạnh hơn trước nhiều nhưng Kite vẫn tiêu diệt được Đối diện với Cubia 1 lần nữa, Kite vẫn chiến thắng dù Cubia mạnh hơn rất nhiều . Kite nhận ra rằng nếu việc điều tra muốn nhanh chóng và tiến triển tốt đẹp thì Lios phải hợp tác với Helba. BlackRose đã giúp Kite hẹn cả Lios và Helba tới NetSlum , lúc này Kite và bạn của họ có thể tới NetSlum trực tiếp qua Area là Λ Pulsating Truth's Core. Tại đây, Lios đồng ý hợp tác với Helba, chỉ với 1 điều kiện rằng Kite phải đánh bại 1 con Data Bug mà không sử dụng Data Drain ! Kite đồng ý cho dù dường như việc này là không thể ! Sau khi Kite tới Σ Sorrowful Sweltering Arena theo yêu cầu của Lios để hạ Data Bug và không sử dụng Data Drain, và Kite đã làm được. Tuy nhiên sau đó Lios tiết lộ đó là Data Bug giả mà Lios tạo ra để kiểm tra Kite. Và Lios đã phải giữ lời và hợp tác với Helba . Lúc này Lios nói thêm rằng C.C Corp đang chuẩn bị cho phá hủy các server và đẩy tội lỗi về phía các hacker như Helba. Tại NetSlum , Wiseman tiết lộ kế hoạch của mình và đề xuất chiến dịch : BREAKWATER để chống lại các Cursed Wave , tìm cách để cách ly chúng và tấn công lại các Phase ! Theo đó Lios sẽ tìm kiếm Cursed Wave cùng với các nhân viên C.C Corp trung thành với mình. Wiseman sẽ phân tích dữ liệu mà Lios gửi tới và Kite sẽ tổ chức 1 party để chống lại các Phase . Các thành viên khác sẽ thực hiện kế hoạch cách ly để ngăn chặn sự lây lan của các Phase và ép chúng vào các Area mà họ muốn. Kite sẽ chờ email thông báo từ mọi người và chuẩn bị chiến đấu với Phase. Dù Kite lúc đầu không dám lãnh đạo nhưng tất cả mọi người đều yêu cầu Kite phải là người trực tiếp phát động chiến dịch ! BlackRose yêu cầu Kite hãy thể hiện và Kite đã đứng trước mọi người và tuyên bố về chiến dịch BREAKWATER ! Kite đề nghị mọi người cùng chung sức và Kite tuyên bố chiến dịch BREAKWATER trước toàn bộ mọi người ! Và tất cả cùng nói "Yes Sir" ! Lúc này, Ai cũng hiẻu rằng tất cả mọi người ở đây vì cùng chung 1 mục đích ! Rồi sau đó, khi Kite nhận email từ Wiseman và quay trở lại Σ Chatting Snaring Twins và gặp Phase thứ 5 : Gorre:"The Machinator" Sau 1 trận chiến dài , họ đã data drain được Gorre và lần này The World không bị lỗi server. Helba thông báo rằng có sự gia tăng về data ở Server Theta . Lần này, Kite hiểu rằng họ phải phản công trước các Phase ! Cuộc phản công bắt đầu ! Cuộc phản công chống lại các Phase đã bắt đầu ! Một vài lời khuyên khi chơi .hack OUTBREAK Sora's Blades - Hãy cố gắng lấy Sora's Blades ở Stalking Betrayed Nothingness càng sớm càng tốt, bạn sẽ nhận được Area ấy khi chơi game sau khi có Member address của Balmung. Đây là 1 thanh kiếm rất mạnh với Effect đánh death lấy đi 75% Hp của đối thủ ( trừ boss ) . Sử dụng nó để train thì rất tuyệt trừ khi đối phương là quái vật Null Physical . Cách để lấy Sora's Blades sớm : - Vì Quái vật của vùng này lvl là khoảng 70, lúc ấy cùng lắm Kite của bạn ở lvl 55. Vậy hãy làm theo các bước sau và bạn sẽ thắng dễ dàng hơn. + Mang theo 1 hay 2 loại kiếm có khả năng đánh hệ Thunder và Dark vì quái vật vùng này chủ yếu có Elemental là Dark , vì thế bạn cần chống lại ! + Mang theo thật nhiều : The Hanged Man và The Moon . Nếu gặp Monster là Lich thì sử dụng the Hanged Man. Nếu gặp Monster là Skull Devilgon thì sử dụng The Moon . Nếu gặp Star Viking thì sử dụng các phép và đòn hệ Darkness vì chúng hệ thunder Phantom Quest - Kite có thể gặp được các Char trong .hack Sign ở 1 trong 4 thành phố , họ xuất hiện dưới dạng hồn ma. Nếu bạn xem đủ 4 movie trong .hack Mutation mà mình nói lần trước thì lần này, bạn có thể tìm các char trên để nhận được những item giá trị. Khi gặp họ thì họ sẽ biến mất và bạn tiếp tục tìm họ , mỗi lần như thế bạn sẽ được item. Lưu ý : Buộc phải tìm lần lượt từng char từ Mimiru rồi gặp Mimiru 6 lần rồi mới được chuyển qua char khác để tìm. Ký hiệu chung : 1=Delta Server 2=Theta Server 3=Lambda Server 4=Sigma Server ----------------------------------------------------------------------- Mimiru: 1. Gần Scroll Shop, chỗ bạn gặp Mia ở bản Infection 2. Gần Grunty Farm. 1. Weapon shop. 3. Grunty Farm. 4. Trên đường từ Elf's Haven tới Grunty Farm. 2. Phía sau Save shop. ----------------------------------------------------------------------- BT: 3. Ở giữa 3 shop, gần cuối đường 4. Giữa Weapon và Scoll shops. 2. Scroll shop. 1. Item shop 4. Giữa Item shop và Elf's Haven. 3. Grunty Farm. ----------------------------------------------------------------------- Bear: 2. Gần Item Shop và Elf's Haven. 1. Gần Scroll Shop, chỗ bạn gặp Mia ở bản Infection 3. Weapon shop. 4. Between Elf Haven and Save Shop. 2. Gần Grunty Farm. 3. Gần chuồng Grunty ----------------------------------------------------------------------- Sora: 4. Giữa Grunty shop và Save shop. 1. Gần Elf's Haven. 3. Gần Grunty Stable. 4. Trên đường từ chaos gate tới magic shop. 2. On path to grunty farm. 4. Behind Grunty Farm. ----------------------------------------------------------------------- Crim: 3. Giữa Save shop và Weapon shop 4. Giữa weapon và save shop: 2. Save shop 1. Magic shop: 3. Crim sẽ đi ở 1 khu vực rộng phía các shop, chịu khó tìm nhé ... 4. Magic Shop, góc trên bên trái ----------------------------------------------------------------------- Silver Knight: 1. Ở cầu, khu phía sau. 3. Phía ngoài grunty farm. 2. Gần Scroll Shop và Weapon shop. 4. Đoạn từ Grunty Farm và Elf's Haven. 2. Gần Potion shop. 1. Gần Weapons shop. ----------------------------------------------------------------------- A-20: 2. Grunty farm. 1. Gần Scroll shop. 4. Đoạn từ Weapon shop và Grunty farm. 3. Grunty Farm và Stable: 1. Giữa đoạn đường Item shop tới Elf's Haven. 4. Item shop, góc trên bên trái ----------------------------------------------------------------------- Subaru: 4.Phía sau Grunty Farm. 1.Giữa Weapon và Scroll shops. 2. Gần Item shop and Elf's Haven. 4. Đoạn giữa Item và Elf's Haven. 3. Đi giữa Save shop tới Weapons shop. 1. Scroll shop. ----------------------------------------------------------------------- Tsukasa: 1. Gần Scroll Shop, chỗ bạn gặp Mia ở bản Infection ( nhớ chuyển qua 1 thành phố khác rồi quay lại đây vì bạn cũng gặp Subaru ở Mac Anu lần gần nhất ) 2. Sau Grunty Farm. 3. Giữa Grunty Farm và Stable. 4. Giữa Weapon shop và Grunty Farm. 4. Giữa Elf's Haven và Grunty Farm. ( nhớ chuyển qua 1 thành phố khác rồi quay lại đây ) 2. Sau Grunty Farm. Phần thưởng : - Khi gặp bất cứ char nào ở lần 1 : Healing Elixir - Khi gặp bất cứ char nào ở lần 2 : Emperor's Soul - Khi gặp bất cứ char nào ở lần 3 : Noble Wine - Khi gặp bất cứ char nào ở lần 4 : Energy Sutras - Khi gặp bất cứ char nào ở lần 5 : Spirit Sutras Ở lần thứ 6 tức là lần cuối : Mimiru, A-20 và Sora sẽ cho bạn Golden Grunty, BT sẽ cho bạn BT's Wand, Bear, Subaru và Crim sẽ cho bạn Silver Grunty, Silver Knight sẽ cho bạn SK's Sword còn Tsukasa sẽ cho bạn Tsukasa's Wand. Gorre và Fidchell : - Lưu ý khi đánh 2 Phase này : - Mang theo nhiều item hồi máu như Recovery Drink và đồ Revive, vì 2 Phase này đánh đòn rút máu nhanh cho nên hồi máu bằng phép sẽ không kịp. Dù sao bản này bạn cũng có nhiều Gp rồi nên đừng tiếc tiền. - Trang bị cho các char trong party của bạn nhiều Antidote và Restorative vì 2 Phase này đánh rất nhiều thuộc tính bất lợi như Sleep, Confuse, Charm ... - Khi gặp Gorre, nó là Phase gồm 2 phần . 1 phần là Null Physical và 1 phần là Null Magical . Hãy đánh vào phần Null Magical và sử dụng các skill gây sát thương vật lý. Khi 1 phần bị protect break thì dùng Drain Arc để Data Drain cả 2 phần. - Khi gặp Gorre thì các đòn tấn công của Gorre rất mạnh và lấy mất khá nhiều hp nên hãy hồi sinh các char của mình liên tục và chuyển battle sang dạng Union để các char đánh tập trung vào 1 phần trong 2 phần của Gorre ( phần Null Magical ấy ) nếu không mỗi char sẽ đánh lung tung các phần nên việc đánh phase sẽ rất lâu .
Phần IV : .hack Quarantine Giới thiệu : - Là phần 4 trong loạt game .hack và là phần cuối trong loạt .hack games. U.S Releash Date : 20/1/2004 Japan Releash Date : 10/4/2003 Europe Releash Date : 3/12/2003 Thể loại : Action RPG Chế độ chơi : Offline Single Player Rating : T Platform : Ps2 Story : - Không lâu sau chiến thắng trước Gorre, Elk tiếp tục tìm kiếm Mia . Kite không giúp được gì cho Elk vì thế cậu vẫn tiếp tục tìm kiếm. Lúc này, server Omega đã mở cửa và cả nhóm quyết định họp bàn cho kế hoạch tại server này. Tuy nhiên khi tới nơi thì server đã bị phá huỷ bởi Cursed Wave và Helba buộc phải chuyển mọi người qua một server song song với nó. Khi cả nhóm đã an toàn, Helba nói sẽ tìm 1 loại vaccine để có thể chống lại Cursed Wave và tiêu diệt nó. Kite được lệnh từ Lios tiếp tục tìm kiếm ở Ω Bigoted Snowflake's Capsule để đo đạt lượng data bất thường ở đây. Lúc này, Lios cho Kite biết C.C Corp đang định phá huỷ các server để ngăn chặn Cursed Wave lây lan ra toàn network. Trong lúc này, tình hình thế giới cũng không khả quan. Nhiều thị trường chứng khoán, hệ thống giao thông bằng tàu và máy bay đều ngừng trệ do Network Crisis. Cả bệnh viện quốc tế Nizato , trung tâm điều trị của Orca cũng gặp vấn đề do Network Crisis. Kite lo sợ rằng nều C.C Corp phá huỷ server thì mối liên kết giữa các coma với The World sẽ mất và sẽ không có cách nào để đưa họ thoát khỏi coma. Kite và nhóm quyết định tăng tốc kế hoạch. Network Crisis đang lan rộng, tới cả các trung tâm y tế toàn cầu . Trước khi liên kết giữa the World với các nạn nhân coma bị phá, Kite và nhóm của cậu phải tăng tốc để cứu các nạn nhân đó. Nhóm của Kite đã tới Ω Cruel Vindictive Scars để tìm kiếm Cursed Wave, tuy nhiên không có gì ở đó và Lios thông báo Cursed Wave đã di chuyển tới Σ Graceful Tempting Fallen Angel . Kite tới đó và gặp Mia ở cuối hang động . Mia nói rằng không hề có chút ký ức nào ở ngoài The World và ôm đầu trước khi biến thành Phase thứ 6 : Macha - The Temptress. Kite không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiêu diệt Macha. Sau khi Kite Data Drain Macha thì Mia xuất hiện trở lại và data của Mia tan biến. Elk tức giận và trách Kite về cái chết của Mia và bỏ đi. Lios lúc này lại nhắn tin cho Kite rằng Cursed Wave lại di chuyển tới Ω Cruel Vindictive Scars . Lúc này, các Wave đã hấp thụ Vaccine và tạo ra kháng thể và quét sạch toàn bộ đội của Lios. Tuy nhiên, Kite trả lại mảnh Segmenh cuối cùng của Aura mà cậu có sau khi Data Drain Macha và vì thế Cursed Wave ngừng hoạt động. Kite gặp lại Cubia như mọi lần sau khi đưa Segment vào Aura. Cậu hiểu rằng Cubia đang tìm cách ngăn cản cậu gặp Aura . Sau đó, khi họ trở về server Omega, Helba đã điều chế 1 loại vaccine hiệu quả hơn để chống lại Cursed Wave . Để thay thế cho đội của Lios đã bị hạ, Kite tập trung mọi người trong danh sách friend list của cậu và tất cả tập hợp cho trận đánh cuối cùng, kể cả Mistral cũng tới trong những trận đánh cuối cùng. Những người không tham gia trong party của Kite được phân công sử dụng vaccine và hướng Cursed Wave về phía Ω Cruel Vindictive Scars để cho nhóm của Kite tiêu diệt. Kế hoạch được đặt tên “Operation Orca” bởi Kite và kế hoạch đã thành công. Kite đã gặp Phase thứ 7 : Tarvos – The Avenger và tiêu diệt nó. Để chuẩn bị cho trận chiến cuối, Kite đã tới tìm Harald - người tạo ra The World tại Δ Reincarnated Purgatorial Altar. Một Dungeon lớn với đầy data bugs và gồm 10 tầng liên tiếp. Khi tới nơi, họ tìm thấy 1 căn phòng trắng và 1 tảng đá có khắc vài thông điệp của Harald trên đó. The passage of time is irreversible. Birth or Death. Only these two possiblities exist. Traveler, take this to heart. It is darkest before the dawn." Aura lúc này xuất hiện và nói rằng Kite đừng đánh với Cubia, vì Cubia chính là thực thẻ đối lập với Twilight Bracelet và không thể tiêu diệt nó. Tuy nhiên Kite vẫn tham chiến với Cubia. Sau khi đánh được Hp của Cubia về 0. Cubia sử dụng “Seraphim Returner” và Hp trở lại nguyên vẹn. Kite bảo BlackRose phá huỷ Twilight Bracelet vì đó là cách duy nhất để hạ Cubia. Dù BlackRose không muốn vì đó là vũ khí mạnh nhất của Kite để chống lại Phase cuối cùng Corbenik, nhưng BlackRose vẫn làm( vì nếu không thì Kite sẽ tự làm :-) ) BlackRose đã phá huỷ Twilight Bracelet và Cubia tan biến thành các mảnh dữ liệu. [video]sUu-ujMRDvE[/video] Sự sụp đổ của Cubia cùng Twilight Bracelet Mất đi Twilight Bracelet và không còn Cubia. Kite bước vào trận chiến cuối cùng với Phase thứ 8 : Corbenik – The Rebirth ở ngay tại Relic City Lia Fail của server Omega. Sau khi nhanh chóng hạ được Corbenik ở hình dạng thứ 1 của nó. Corbenik chuyển sang hình dạng thứ 2. Ở hình dạng này, khi đánh Corbenik gần hết Hp, Corbenik khởi động Supreme Defense và cả party của Kite không có cách nào tiêu diệt nó. Ngay lúc này, tinh thần và ý chí của những nguời bị coma như Orca, Sieg ( Sieg chính là Kuhn của .hack//G.U) , Sora ( Sora là Haseo của .hack//G.U) và Kazu( là em gái của BlackRose) đều xuất hiện và tấn công Corbenik làm tấm lá chắn bất khả xâm phạm của Corbenik yếu đi. Kite đã tung 1 đòn quyết định vào Corbenik và tiêu diệt nó ở hình dạng thứ 2 này. [video]24t7mH9tLuk[/video] Corbenik với Supreme Defense cũng không thể chống được ý chí của các nạn nhân coma và đòn đánh của Kite lại 1 lần nữa hạ gục Corbenik. Tuy nhiên Corbenik lần này hợp thể với Morganna để chuyển sang hình dạng cuối cùng Nhưng có vẻ chưa kết thúc, Morganna lúc này hợp thể với Corbenik và lại tấn công 1 lần nữa. Trong trận chiến với Morganna, lúc sắp tiêu diệt được Morganna thì Morganna sử dụng quân bài tối thượng – vũ khí mạnh nhất : Drain Heart . Toàn bộ “.Hacker” bị Drain Heart của Morganna tiêu diệt, lúc Kite sắp bị Drain Heart tấn công thì Elk đã đẩy Kite ra và chịu đòn thay cho cậu. Elk thừa nhận rằng mình đã ích kỷ , chỉ nghĩ đến mình và xin Kite tha thứ cho mình. Kite tức giận và lao tới Morganna sau khi vượt qua vô số đòn Drain Heart và khi Kite sắp tung đòn kết liễu Morganna thì Aura xuất hiện và chịu đòn của Kite. Điều này là để Aura hoàn thiện hơn . Trước khi chết, Aura đã tiêu diệt Morganna và The World trở lại bình thườn, Các nạn nhân coma cũng đã tỉnh lại . [video]6JFTNT2s75M[/video]Birth of The Future - Sức mạnh của Drain Heart và sự hy sinh của Aura để hoàn thiện hơn và cũng là trận chiến cuối cùng mà .hack Quarantine mang lại cho người chơi. Một đoạn phim rất có ý nghĩa và thể hiện Storyline tuyệt vời của 4 bản .hack games. Sau 1 thời gian thì Kite lần này nhận được tin nhắn của Aura. Kite và Orca đã gặp Aura và Aura đưa cho Kite : Book of Twilight : Daybreak. Sức mạnh và Twilight Bracelet lại quay trở về với Kite. Sau đó, Aura nói với Kite về Area là Ω Hidden Darkside Holy Ground. Area đó là nơi sinh của Aura và Morganna. Còn trên Board thì có người nói thấy 1 player giống mèo ở đó. Kite và Elk lập tức tới đó và thấy Macha ở hình dạng mèo. Sau khi đánh bại Temptress Lover ở tầng cuối. Họ nhận ra Macha đã được giải phóng và trở thành Mia . Mia lúc này mất đi tất cả ký ức sau khi gặp Kite lần đầu nhưng Kite và Elk hứa sẽ ở bên cạnh Mia dù điều ấy xảy ra. Dawn of new World - Thực sự rằng dấu chấm của .hack Quarantine đã kết thúc hoàn hảo cho 1 dòng game Một vài lời khuyên khi chơi .hack Quarantine - Khi gặp Dungeon nào có quá nhiều Data Bug thì hạn chế data drain tối đa, chỉ sử dụng khi gặp Data Bug và chỉ dùng 1 lần để làm nó hiện hp ra thôi nhé. Trận gặp Macha : - Macha có đòn Suspicious Seduction - cực kỳ nguy hiểm gây Charm cho cả party của bạn, hãy trang bị item hồi sinh nhiều cho trận này cùng Restorative - Không mang Wavemaster trong trận này vì macha đánh hút sp rất kinh. Nếu mang Wavemaster chỉ thiệt thôi vì không có sp thì Wavemaster không được việc gì cả. Trận gặp Tarvos : - Tarvos có đòn Cursed Death Play : Tạo ra 1 cái hình nhân của Kite và đâm xuyên qua nó. Kite sẽ mất 9999Hp và K.O là điều chắc chắn. Hãy đảm bảo 2 thành viên còn lại của bạn đủ item hồi sinh bạn. Lưu ý nữa là sau khi Tarvos instant kill Kite thì nó sẽ gây effect Paralysis lên 1 trong 2 người còn sống, vì thế luôn đảm bảo rằng party của bạn lúc nào cũng có 3 người sống nhé ( để lúc 1 ngưòi chết, 1 người bị Paralysis thì vẫn còn 1 người ) Trận gặp Corbenik : - Khi Corbenik sử dụng đòn Corbenik Seeds, nó sẽ ném mấy quả trứng ra xung quanh và đếm từ 5 về 0. Hãy ra lệnh là Follow me để cho teammate của kite đi theo Kite ra chỗ an toàn hoặc bạn đập vỡ những quả trứng trước khi chúng đếm về 0. Thực ra điểm chung là bạn chỉ cần trang bị thật nhiều ( khoảng trên 40 cái mỗi trận, riêng với trận Corbenik thì khoảng 50 - 60 ) Item hồi sinh, hồi máu, hồi sp cho bạn và đồng đội thì boss nào cũng xong hết :-)
.hack wikia : The World Đây là phần viết wikia chủ yếu về The World - 1 game online mà series .hack thường chọn làm bối cảnh. Phần wikia này không chú trọng nhiều vào Story. Nhưng thực sự đây cũng là 1 điểm khá thú vị của dòng game. .hack G.U//wikia : Classes A. The World Cũng giống như nhiều game online khác. The World cũng được chia thành nhiều class cho các nhân vật chọn lựa. Trước hết chúng ta sẽ đề cập tới các class xuất hiện trong bản gốc của The World. Chúng gồm có 6 class : * Blademaster * Heavy Axeman * Heavy Blade * Long Arm * Twin Blade * Wavemaster 1. Blademaster Là class có kích cỡ trung bình và sử dụng kiếm 1 tay. Là 1 trong những class mạnh nhất trong bản gốc của The World. Là class có chỉ số tấn công vật lý cao thứ ba game và phòng ngự vật lý cao nhất game. Thực tế cho thấy Blademaster hoàn toàn có thể đạt max stats là 99 ở các chỉ số liên quan tới vật lý. Nhờ động tác ra đòn trong 1 phạm vi nhất định và đánh nhanh khiến class Blademaster thiên về sức mạnh vật lý. Bù lại, Blademaster chỉ có sức mạnh trung bình trong các đòn skill của mình. Các đòn Skill thường mang nguyên tố Darkness, Earth, Fire, và Water. List Skill của Blademaster : * Cross Slash (Lv. 1) o Ani Slash (Darkness, Lv. 2) o GiAni Slash (Darkness, Lv. 3) o Gan Slash (Earth, Lv. 2) o GiGan Slash (Earth, Lv. 3) o Vak Slash (Fire, Lv. 2) o GiVak Slash (Fire, Lv. 3) o Rue Slash (Water, Lv. 2) o GiRue Slash (Water, Lv. 3) * Crack Beat (Lv. 1) o Ani Crack (Darkness, Lv. 2) o GiAni Crack (Darkness, Lv. 3) o Gan Crack (Earth, Lv. 2) o GiGan Crack (Earth, Lv. 3) o Vak Crack (Fire, Lv. 2) o GiVak Crack (Fire, Lv. 3) o Rue Crack (Water, Lv. 2) o GiRue Crack (Water, Lv. 3) * Revolver (Lv. 1) o Ani Revolver (Darkness, Lv. 2) o Anid Spiral (Darkness, Lv. 3) o Gan Revolver (Earth, Lv. 2) o Ganz Spiral (Earth, Lv. 3) o Vak Revolver (Fire, Lv. 2) o Vakz Spiral (Fire, Lv. 3) o Rue Revolver (Water, Lv. 2) o Ruem Spiral (Water, Lv. 3) 2. Heavy Axeman Sử dụng vũ khí chính là rìu và là class có chỉ số tấn công vật lý cao nhất và tăng Hp nhiều nhất trong game. Xác suất đánh trúng của Heavy Axeman cũng cao hơn so với Blademaster. Bù lại class này thường đi chậm và có tốc độ ra đòn không cao. Dù có lượng Hp cao nhưng Heavy Axeman có điểm phòng ngự vật lý và phòng ngự ma thuật thấp. Class này phù hợp trong việc chịu đòn trước các đối thủ mạnh nhưng ko tốt khi gặp các đối thủ nhanh hơn hoặc đánh phép, trừ khi bạn có ưu thế đi trước. Skill của class này thường tập trung vào sức mạnh để gây lượng dmg cao, số phát đánh không nhiều nhưng lại đánh nhiều đối tượng. Các đòn Skill thường mang nguyên tố Darkness, Earth, Thunder, và Water. List Skill của Heavy Axeman * Brandish (Lv. 1) o Ani Basher (Darkness, Lv. 2) o Anid Punisher (Darkness, Lv. 3) o Gan Basher (Earth, Lv. 2) o Ganz Punisher (Earth, Lv. 3) o Rai Basher (Thunder, Lv. 2) o Raio Punisher (Thunder, Lv. 3) o Rue Basher (Water, Lv. 2) o Ruem Punisher (Water, Lv. 3) * Axel Pain (Lv. 1) o Ani Break (Darkness, Lv. 2) o GiAni Break (Darkness, Lv. 3) o Gan Break (Earth, Lv. 2) o GiGan Break (Earth, Lv. 3) o Rai Break (Thunder, Lv. 2) o GiRai Break (Thunder, Lv. 3) o Rue Break (Water, Lv. 2) o GiRue Break (Water, Lv. 3) * Triple Wield (Lv. 1) o Ani Tornado (Darkness, Lv. 2) o GiAni Rampage (Darkness, Lv. 3) o Gan Tornado (Earth, Lv. 2) o GiGan Rampage (Earth, Lv. 3) o Rai Tornado (Thunder, Lv. 2) o GiRai Rampage (Thunder, Lv. 3) o Rue Tornado (Water, Lv. 2) o GiRue Rampage (Water, Lv. 3) 3. Heavy Blade Kiếm cầm bằng cả 2 tay hoặc sử dụng katana làm vũ khí chính là đặc trưng của class này. Là class có sức tấn công vật lý cao nhì game, dễ dàng mang các loại giáp level cao, khả năng đánh chính xác tốt. Nếu so với Blademaster thì class này lại có nhiều lựa chọn hơn trong việc sử dụng Skill. Class này có 4 dạng Skill khác nhau, 2 dạng có thể sử dụng khi đang cầm katana và 2 dạng có thể được sử dụng khi đang cầm các loại kiếm khác. Skill của class này cũng có lượng đòn ít và thường mang các nguyên tố như Fire, Thunder, Earth, Wood vào đòn tấn công của mình. List Skill của Heavy Blade • Calamity (Lv. 1) o Gan Drive (Earth, Lv. 2) o Ganz Maxima (Earth, Lv. 3) o Vak Drive (Fire, Lv. 2) o Vak Maxima (Fire, Lv. 3) o Rai Drive (Thunder, Lv. 2) o Raio Maxima (Thunder, Lv. 3) o Juk Drive (Wood, Lv. 2) o Juka Maxima (Wood, Lv. 3) • Death Bringer (Lv. 1) o Gan Smash (Earth, Lv. 2) o Gan Divider (Earth, Lv. 3) o Vak Smash (Fire, Lv. 2) o Vak Divider (Fire, Lv. 3) o Rai Smash (Thunder, Lv. 2) o Rai Divider (Thunder, Lv. 3) o Juk Smash (Wood, Lv. 2) o Juk Divider (Wood, Lv. 3) • Hayabusa ( khi cầm Katana) (Lv. 1) o Danku (Katana) (Earth, Lv. 2) o Kyokushin (Katana) (Earth, Lv. 3) o Karin (Katana) (Fire, Lv. 2) o Ohka (Katana) (Fire, Lv. 3) o Raika (Katana) (Thunder, Lv. 2) o Murakumo (Katana) (Thunder, Lv. 3) o Hirameki (Katana) (Wood, Lv. 2) o Karatakewari (Katana) (Wood, Lv. 3) • Sohgasho ( khi cầm Katana) (Lv. 1) o Gohryu (Katana) (Earth, Lv. 2) o Gohrai (Katana) (Earth, Lv. 3) o Kannon (Katana) (Fire, Lv. 2) o Garekka (Katana) (Fire, Lv. 3) o Rairaku (Katana) (Thunder, Lv. 2) o Unyo no Tachi (Katana) (Thunder, Lv. 3) o Kitsutsuki (Katana) (Wood, Lv. 2) o Kamikusabi (Katana) (Wood, Lv. 3) 4. Long Arm Với vũ khí là giáo để có thể quét tầm rộng . Long Arm khá giống Twin Blade chỉ khác là có khả năng tấn công và phòng ngự cao hơn 1 chút. Cũng nhờ vũ khí có thể quét tầm rộng nên có thể đánh được nhiều đối tượng ở cự ly khá gần, chủ yếu các đòn của Long Arm là đánh nhiều lần liên tiếp dù không nhanh được như Twin Blade. Khoảng thời gian nghỉ giữa các đòn là khá ngắn vì thế đối phương có thể phải nhận những phát đánh liên tiếp. Tốc độ di chuyển của Long Arm cũng thuộc dạng nhanh. Các nguyên tố đánh ra chủ yếu là Fire, Thunder, Water, and Wood. List Skill của Long Arm • Double Sweep (Lv. 1) o Vak Wipe (Fire, Lv. 2) o Vakz Tempest (Fire, Lv. 3) o Rai Wipe (Thunder, Lv. 2) o Raio Tempest (Thunder, Lv. 3) o Rue Wipe (Water, Lv. 2) o Ruem Tempest (Water, Lv. 3) o Juk Wipe (Wood, Lv. 2) o Juka Tempest (Wood, Lv. 3) • Repulse Cage (Lv. 1) o Vak Repulse (Fire, Lv. 2) o GiVak Vortex (Fire, Lv. 3) o Rai Repulse (Thunder, Lv. 2) o GiRai Vortex (Thunder, Lv. 3) o Rue Repulse (Water, Lv. 2) o GiRue Vortex (Water, Lv. 3) o Juk Repulse (Wood, Lv. 2) o GiJuk Vortex (Wood, Lv. 3) • Triple Doom (Lv. 1) o Vak Doom (Fire, Lv. 2) o GiVak Doom (Fire, Lv. 3) o Rai Doom (Thunder, Lv. 2) o GiRai Doom (Thunder, Lv. 3) o Rue Doom (Water, Lv. 2) o GiRue Doom (Water, Lv. 3) o Juk Doom (Wood, Lv. 2) o GiJuk Doom (Wood, Lv. 3) 5. Twin Blade Là class cân bằng nhất trong The World. Với vũ khí là song kiếm ngắn, class này có thể coi là tốc dộ di chuyển và tốc độ ra đòn thuộc hàng bậc nhất. Thường đặt cho biệt danh “Jack of all trades, master of none”, vì thế tất cả các chỉ số của Twin Blade đều thuộc dạng trung bình. Sức mạnh của họ nằm ở các skill ra đòn với mật độ dày và liên tục , có kèm theo nhiều thuộc tính , thường gây sát thương cao khi đối thủ yếu ở thuộc tính ấy. Như Skill Staccato có thể đánh tới 15 cú lên 1 đối tượng, Skill Tiger claws đánh 5 cú xung quanh và Saber Dance đánh 4 đòn liên tiếp rất mạnh lên 1 đối tượng. List Skill của Twin Blade • Staccato (Lv. 1) o Twin Dragons (Fire, Lv. 2) o Dragon Rage (Fire, Lv. 3) o Gale of Swords (Wood, Lv. 2) o Typhoon Blade (Wood, Lv. 3) o Lightning Rage (Thunder, Lv. 2) o Storm Rage (Thunder, Lv. 3) o Twin Darkness (Dark, Lv. 2) o Evil Twin (Dark, Lv. 3) • Tiger Claws (Lv. 1) o Blazing Wheel (Fire, Lv. 2) o Flame Vortex (Fire, Lv. 3) o Splinter Slash (Wood, Lv. 2) o Wildflower (Wood, Lv. 3) o Thunder Coil (Thunder, Lv. 2) o Tempest Strike (Thunder, Lv. 3) o Swirling Dark (Dark, Lv. 2) o Terror Cyclone (Dark, Lv. 3) • Saber Dance (Lv. 1) o Flame Dance (Fire, Lv.2) o Red Flame (Fire, Lv. 3) o Orchid Dance (Wood, Lv. 2) o Orchid Strike (Wood, Lv. 3) o Thunder Dance (Thunder, Lv. 2) o Dark Dance (Dark, Lv. 2) o Darkness Slash (Dark, Lv. 3) 6. Wavemaster Là class không thể học được các đòn vật lý và vũ khí là gậy phép, điều này khiến Wavemaster chỉ có thể đứng ngoài trận đấu sử dụng phép thuật hỗ trợ cũng như gây sát thương lên đối thủ. Là class có điểm Sp rất cao để có thể sử dụng được phép thuật lâu trong trận đấu. Bù lại, class này là class duy nhất có thể sử dụng được các phép thuật cấp 4. Điều mà các class khác không thể nào làm được ( chỉ duy nhất Twin Blade có thể làm nếu được trang bị đủ bộ đồ Goblin ) B. The World R:2 Khác với The World, sau vụ cháy vào năm 2015, phần lớn dữ liệu của The World cũ đã bị phá huỷ hoàn toàn. C.C Corp cho ra đời The World R:2 với sự xuất hiện của 11 classes khác nhau. Chúng được gọi là Jobs • Adept Rogue • Blade Brandier • Macabre Dancer • Edge Punisher • Flick Reaper • Harvest Cleric • Lord Partizan • Shadow Warlock • Steam Gunner • Tribal Grappler • Twin Blade 1. Adept Rogue Trong vai 1 Adept Rogue, Job này không tập trung vào việc sử dụng 1 vũ khí hay cách thức chiến đấu. Điểm mạnh của Adept Rogue là có nhiều dạng cũng như có thể sử dụng nhiều vũ khí khác nhau. Job này cũng xuất hiện trở lại trong The World R:X Để tránh việc thiếu cân bằng, trước khi tạo nhân vật thì người chơi được phép chọn 2 hoặc 3 class để hợp thành Adept Rogue. Việc này được dựa vào hệ thống điểm riêng cho nhân vật. Job này được chọn tuỳ ý sử dụng 1 trong 3 loại giáp trong trò chơi. Adept Rogue sẽ bắt đầu với Job đầu tiên mà player chọn, sau đó những dạng mới, vũ khí mới có thể có qua các nhiệm vụ Job Extend. Adept Rogue có 4 điểm để chọn các Job tạo thành nhân vật riêng cho mình. Ví dụ như Haseo – nhân vật chính trong .hack//G.U sử dụng 4 điểm này vào Job là Edge Punisher ( 1 điểm ), Twin Blade ( 1 điểm ) và Flick Reaper ( 2 điểm ) và Haseo phải Job Extend 2 lần. Haseo - 1 Adept Rogue khi chọn đủ 3 class Hệ thống xây dựng điểm cho Adept Rogue như sau : • Blade Brandier - 1 điểm • Edge Punisher - 1 điểm • Twin Blade - 1 điểm • Flick Reaper - 2 điểm • Lord Partizan - 2 điểm • Tribal Grappler - 2 điểm • Macabre Dancer - 3 điểm • Harvest Cleric - 3 điểm • Shadow Warlock - 3 điểm • Steam Gunner - 3 điểm Sức mạnh thật sự của Adept Rogue nằm ở hệ thống Job Extend. Job Extend được thực hiện qua các quest khó để Adept Rogue có thể chuyển sang dạng kế tiếp. Một quest yêu cầu Adept Rogue phải làm 1 mình. Trong khi 1 yêu cầu hoàn thành với sự giúp đỡ của bạn bè, nếu Adept Rogue mở Beast Statue 1 mình, thì item để Job Extend sẽ biến mất. Nó buộc phải mở khi party đầy đủ. Vì Adept Rogue có thể chọn nhiều Jobs khác để kết hợp với nhau nên Job level của họ tăng chậm hơn. Chẳng hạn như 1 player Shadow Warlock ở level 20 sẽ có nhiều kỹ năng hơn 1 Adept Rogue cũng có Shadow Warlock là Job duy nhất. Tuy việc lên lvl và luyện Job chậm, nhưng Adept Rogue ở lvl đủ cao có nhiều kỹ năng hơn bất kỳ và rất hữu dụng theo đúng nghĩa "jack of all trades". Khi 1 Adept Rogue đạt Job Extension cuối, họ có thể sử dụng được Multi-Trigger. Cho phép player dễ dàng trộn lẫn nhiều Skill Triggers của nhiều Job khác nhau và tự động đổi vũ khí khi sử dụng kỹ năng của Job ấy. 2. Blade Brandier Sức sát thương của Blade Brandier cao hơn Twin Blade và thấp hơn Edge Punisher, điều này khiến class này có sức mạnh tấn công trung bình về vật lý. Họ có tốc độ khá cao dù không nhanh như Twin Blade hay Tribal Grapper, nhưng nhanh hơn các class có giáp nặng như Lord Partizan. Blade Brandier có kích cỡ trung bình, cầm kiếm 1 tay và sử dụng vũ khí khá giống như katana. Trong The World R:2, không giống như người tiền nhiệm, các kỹ năng học dựa trên Job mà player chọn, không phải vũ khí. Vì thế mỗi lần player thăng cấp Job level, họ sẽ học được những đòn mới. List Skill Trigger của Job này trong The World R:2 • Sword Flash (Đánh 1 đối tượng, đánh dạng thường, SP yêu cầu để sử dụng: 10, Job Lv. 1) • Ogre Sword (Đánh nhiều đối tượng, đánh dạng thường, SP yêu cầu để sử dụng: 12, Job Lv. 4) • Lateral Moon (Đánh 1 đối tượng, đánh trên không, SP yêu cầu để sử dụng: 15, Job Lv. 7) • Razor's Edge (Đánh 1 đối tượng, đánh dạng thường,, SP yêu cầu để sử dụng: 25, Job Lv. 11) • Disaster Sword (Đánh theo khu vực, đánh dạng thường,, SP yêu cầu để sử dụng: 30, Job Lv. 15) • Devil Sword (Lv.3 Art, đánh theo khu vực, đánh dạnh thường, SP yêu cầu để sử dụng: 52*, Job Lv. 21) o * Với mỗi lần Blade Brandier tăng Job level sau khi đã có kỹ năng Devil Sword, SP yêu cầu để sử dụng sẽ giảm theo thứ tự : 52, 49, 46, 44, 41, 38, 35, 33, 30, 27 Thông tin thêm - Ở bản Reminisce, tiếng thét đòn tấn công Sword Flash được chuyển thành Shadow Flash - 2 Skills là Shadow Dragon và Nightfall Wind được bỏ trong những giai đoạn cuối trước khi phát hành .hack//G.U. Games mà không rõ lý do. 3. Edge Punisher Edge Punishers rất mạnh trong các đòn tất công vật lý, đặc biệt trước các đối thủ giáp nặng. Do đặc điểm của Job này là khá chậm chạp và chủ yếu tập trung vào các cú đánh chậm mà chắc. Edge Punishers cũng có khả năng thủ cao dựa vào những loại giáp mà họ trang bị cho mình. List Skill Trigger của Job này trong The World R:2 • Tiger Blitz (Đánh 1 đối tượng, đánh dạng thường, SP yêu cầu để sử dụng: 12, Job Lv. 1) • Twin Moons (Đánh 1 đối tượng, đánh trên không, SP yêu cầu để sử dụng: 15, Job Lv. 3) • Armor Pierce (Đánh 1 đối tượng, đánh xuyên giáp, SP yêu cầu để sử dụng: 18, Job Lv. 5) • Bone Crusher (Đánh theo khu vực , đánh xuyên giáp,, SP yêu cầu để sử dụng: 20, Job Lv. 7) • Tiger Strike (Đánh theo khu vực, đánh dạng thường,, SP yêu cầu để sử dụng: 28, Job Lv. 12) • Shell Breaker (Đánh 1 đối tượng, đánh xuyên giáp, SP yêu cầu để sử dụng: 36, Job Lv. 15) • Armor Break (Lv.3 Art, đánh 1 đối tượng, đánh xuyên giáp, SP yêu cầu để sử dụng: 62*, Job Lv. 21) o * Với mỗi lần Edge Punisher tăng Job level sau khi đã có kỹ năng Armor Break, SP yêu cầu để sử dụng sẽ giảm theo thứ tự 62,59,56,52,49,46,42,39,36,33 Thông tin thêm - 2 Skills là Mystic Moon và Bone dust được bỏ trong những giai đoạn cuối trước khi phát hành .hack//G.U. Games mà không rõ lý do. 4. Twin Blade Twin Blade có lượng agi cao và tấn công bằng cách sử dụng 2 thanh kiếm ngắn. Việc tấn công liên tiếp của họ khiến đối thủ của họ khó có cơ hội nào để phản công. Twin Blade cũng là class có nhiều sự lựa chọn về vũ khí và các loại trang bị nhất trong The World R:2. List Skill Trigger của Job này trong The World R:2 • Gale Blade (Đánh 1 đối tượng, đánh dạng thường, SP yêu cầu để sử dụng: 10, Job Lv. 1) • Sparrow Counter (Đánh 1 đối tượng, đánh trên không, SP yêu cầu để sử dụng: 15, Job Lv. 3) • Sword Dance (Đánh theo khu vực, đánh dạnh thường, SP yêu cầu để sử dụng: 12, Job Lv. 5) • Tri. Strike (Đánh 1 đối tượng , đánh xuyên giáp, SP yêu cầu để sử dụng: 18, Job Lv. 7) • Wirlwind (Đánh theo khu vực, đánh dạng thường,, SP yêu cầu để sử dụng: 21, Job Lv. 11) • Chaotic Strike (Đánh 1 đối tượng, đánh trên không, SP yêu cầu để sử dụng: 27, Job Lv. 14) • Ghost Falcon (Lv.3 Art, đánh 1 đối tượng, đánh trên không, SP yêu cầu để sử dụng: 52*, Job Lv. 21) o * Với mỗi lần Twin Blade tăng Job level sau khi đã có kỹ năng Ghost Falcon, SP yêu cầu để sử dụng sẽ giảm theo thứ tự 52,49,46,44,41,38,35,33,30,27. Thông tin thêm - 2 Skills là Sword Blast ( khá giống Wirlwind ) và Hellfire ( khá giống Ghost Falcon ) được bỏ trong những giai đoạn cuối trước khi phát hành .hack//G.U. Games mà không rõ lý do. 5. Macabre Dancer Macabre Dancer là 1 class khá lạ trong The World R:2. Họ sử dụng vũ khí giống như những chiếc quạt lớn. Họ sẽ sát thương đối thủ qua những cạnh sắc ở rìa chiếc quạt của họ , khiến trận chiến của họ giống như 1 điệu nhảy . Vì thế mà những player trong The World gọi họ là "Flowers of the Battlefield". Macabre Dancers là bậc thầy trong việc phép gây những status có hại cho kẻ thù thay đổi chỉ số của kẻ thù, và khá cân bằng trong việc tấn công và phòng ngự phép thuật qua việc học được cả phép hồi máu và tấn công. Giống như Harvest Clerics và Shadow Warlocks, Macabre Dancers học phép cực kỳ nhanh, gần như là mỗi một phép học được ở 1 level, nhưng không học được Art. List các phép của Macabre Dancers • Dek Corv (Chọn 1 đối tượng, SP: 12, Giảm P. Atk. đi 3, Job Lv. ?) • Dek Corma (Chọn 1 đối tượng, SP: 12, Giảm M. Atk. đi 3, Job Lv. ?) • Ap Corv (Chọn 1 đối tượng, SP: 15, Tăng cho đồng đội P. Atk. thêm 3, Job Lv. ?) • Ap Corma (Chọn 1 đối tượng, SP: 15, Tăng cho đồng đội M. Atk. thêm 3, Job Lv. ?) • Repth (Chọn 1 đối tượng, SP: 16, Hp Hồi : 100, Job Lv. ?) • Dek Vorv (Chọn 1 đối tượng, SP: 12, Giảm P. Def. đi 3, Job Lv. ?) • Dek Vorma (Chọn 1 đối tượng, SP: 12, Giảm M. Def. đi 3, Job Lv. ?) • Ap Vorv (Chọn 1 đối tượng, SP: 15, Tăng P. Def. thêm 3, Job Lv. ?) • Ap Vorma (Chọn 1 đối tượng, SP: 15, Tăng M. Def. thêm 3, Job Lv. ?) • Duk Lei (Chọn 1 đối tượng, SP: 15, Gây trạng thái : Poison , Job Lv. ?) • Mumyn Lei (Chọn 1 đối tượng, SP: 20, Gây trạng thái : Sleep, Job Lv. ?) • MeDek Corv (Chọn 1 khu vực, SP: 28, Giảm tất cả party đối phương P. Atk đi 3, Job Lv. ?) • MeDek Corma (Chọn 1 khu vực, SP: 28, Giảm tất cả party đối phương M. Atk đi 3, Job Lv. ?) • MeDek Vorv (Chọn 1 khu vực, SP: 28, Giảm tất cả party đối phương P. Def đi 3, Job Lv. ?) • MeDek Vorma (Chọn 1 khu vực, SP: 28, Giảm tất cả party đối phương M. Def đi 3, Job Lv. ?) • Ap Do (Chọn 1 đối tượng, SP: 20. Tăng Spd thêm 25%, Job Lv. ?) • Dek Do (Chọn 1 đối tượng, SP: 20, Giảm Spd đi 25%, Job Lv ?) • Ul Repth (Chọn 1 đối tượng, Hp Hồi : 200, Job Lv. ?) • Rap Corv (Chọn 1 khu vực, SP: 40, P. Atk. của toàn party tăng 3 , Job Lv. ?) • Rap Corma (Chọn 1 khu vực, SP: 40, M. Atk. của toàn party tăng 3 , Job Lv. ?) • Rap Vorv (Chọn 1 khu vực, SP: 40, P. Def. của toàn party tăng 3 , Job Lv. ?) • Rap Vorma (Chọn 1 khu vực, SP: 40, M. Def. của toàn party tăng 3 , Job Lv. ?) • Rip Maen (Chọn 1 đối tượng, hồi sinh 1 đối tượng có Hp = 0, Job Lv. ?) • Ol Repth (Chọn 1 đối tượng, SP: 80, Hp Hồi : 350, Job Lv. ?) • Dek Orv (Chọn 1 đối tượng, SP: 36, Giảm cả P-atk và P-def đi 3, Job Lv. ?) • Dek Orma (Chọn 1 đối tượng, SP: 36, Giảm cả M-def và M-atk đi 3 , Job Lv. ?) • Rig Geam(Chọn 1 đối tượng, SP: 35, SP hồi dần theo thời gian, Job Lv. ?) • Rig Seam(Chọn 1 đối tượng, SP: 35, HP hồi dần theo thời gian, Job Lv. ?) • Rap Do (Chọn 1 khu vực, SP: 55, Tăng 25% spd toàn party, Job Lv. ?) • Gan Bolg (Chọn 1 khu vực, SP: 32, Element: Earth, Đánh xuyên giáp, Job Lv. ?) • Vak Don (Chọn 1 khu vực, SP: 36, Element: Fire, Dạng: Drop, Job Lv. ?) • Ani Zot (Chọn 1 đối tượng, SP: 48, Element: Dark, Dạng: Raise, Job Lv. ?) • Ap Orv (Chọn 1 đối tượng, SP: 25, P. Atk và Defense tăng thêm 3 , Job Lv. 24) • Ap Orma (Chọn 1 đối tượng, SP: 25, M. Atk và Defense tăng thêm 3 , Job Lv. 24) 6. Flick Reaper Flick Reaper sử dụng lưỡi hái làm vũ khí tấn công chính của mình. Khá giống như Heavy Axeman trong The World , vũ khí của Flick Reaper thường khá lớn như rìu hoặc lưỡi hái. Dù Flick Reapers khá yếu khi đánh tầm xa nhưng họ rất mạnh ở tầm trung và các đòn của Flick Reaper thường đánh diện rộng kèm theo khả năng đẩy đối phương ra xa, điều này khiến kẻ thù rất khó tiếp cận họ để đánh cận chiến. List Skill Trigger của Job này trong The World R:2 • Wicked Strike (Tấn công khu vực, đánh dạnh thường, SP yêu cầu để sử dụng: 15, Job Lv. 1) • Lotus Flower (Tấn công khu vực, đánh trên không, SP yêu cầu để sử dụng: 18, Job Lv. 6) • Reaper's Touch (Tấn công khu vực, đánh dạnh thường, SP yêu cầu để sử dụng: 32, Job Lv. 12) • Heavenly Wheel (Tấn công khu vực, đánh trên không, SP yêu cầu để sử dụng: 40, Job Lv. 16) • Reapers Dance (Lv.3 Art, Tấn công khu vực, đánh dạnh thường, SP yêu cầu để sử dụng: 66*, Job Lv. 21) *Mỗi lần Flick Reaper tăng Job level sau khi học Reapers Dance, SP yêu cầu để sử dụng sẽ giảm theo thứ tự 66,63,59,56,52,49,45,42,38,35. Thông tin thêm - 2 Skills là Blood Craze và Demon’s Reach được bỏ trong những giai đoạn cuối trước khi phát hành .hack//G.U. Games mà không rõ lý do. 7. Lord Partizan Lord Partizan khá giống với Long Arms trong The World, họ có khả năng đánh tầm trung nhưng không đánh dạng quét 1 diện rộng như Flick Reapers mà tập trung vào 1 đối tượng. Sức tấn công và phòng ngự vật lý của họ rất cao , điều này khiến chỉ có ma thuật là nhược điểm duy nhất của họ. Tuy nhiên Skill Level của họ phát triển cũng thuộc hàng thấp nhất, bù lại các đòn của họ có khả năng xuyên phá rất mạnh , đặc biệt trước những quái vật có giáp dày. List Skill Trigger của Job này trong The World R:2 • Air Raid (Tấn công 1 đối tượng, đánh trên không, SP yêu cầu để sử dụng: 15, Job Lv. 1) • Thorn Dance (Tấn công 1 đối tượng, đánh xuyên giáp, SP yêu cầu để sử dụng: 18, Job Lv. 5) • Piercing Heaven (Tấn công 1 đối tượng, đánh trên không, SP yêu cầu để sử dụng: 32, Job Lv. 11) • Scarlet Thrust (Tấn công khu vực, đánh xuyên giáp, SP yêu cầu để sử dụng: 38, Job Lv. 16) • Heavenly Rage (Lv.3 Art, Tấn công khu vực, đánh trên không, SP yêu cầu để sử dụng: 57*, Job Lv. 21) *Mỗi lần Lord Partizan tăng Job level sau khi học Heavenly Rage, SP yêu cầu để sử dụng sẽ giảm theo thứ tự 57,54,51,48,45,42,39,36,33,30. 8. Tribal Grappers Tribal Grappers là class khá giống với Kuncle Master của The World R:1. Class này có tốc độ đánh rất cao khiến họ thực hiện các đòn Rengenki rất nhanh. Tuy nhiên cho dù lượng Hp cao, họ vẫn có chỉ số phòng ngự khá khiêm tốn. Một nhược điểm khác của class này là có quá ít Art, cụ thể chỉ có 2 Skill trong bản Rebirth. List Skill Trigger của Job này trong The World R:2 • Rapid Attack (Tấn công 1 đối tượng, đánh dạnh thường, SP yêu cầu để sử dụng: 12, Job Lv. 1) • King Hammer (Tấn công 1 đối tượng, đánh xuyên giáp, SP yêu cầu để sử dụng: 15, Job Lv. 5) • Tiger Bite (Tấn công 1 đối tượng, đánh dạnh thường, SP yêu cầu để sử dụng: 24, Job Lv. 11) • Palm Blast (Tấn công 1 đối tượng, đánh xuyên giáp, SP yêu cầu để sử dụng: 30, Job Lv. 15) • Shell Shock (Lv.3 Art, Tấn công 1 đối tượng, đánh trên không, SP yêu cầu để sử dụng: 57*, Job Lv. 21) *Mỗi lần Tribal Grappers tăng Job level sau khi học Shell Shock, SP yêu cầu để sử dụng sẽ giảm theo thứ tự : 57,54,51,48,45,42,39,36,33,30. Thông tin thêm - Skills là Roaring Fist được bỏ trong những giai đoạn cuối trước khi phát hành .hack//G.U. Games mà không rõ lý do. 9. Steam Gunner Steam Gunner giống các Shadow Warlock chỉ khác là họ gây sát thương vật lý. Là class có tầm đánh vật lý thuộc dạng cao nhất và tốc độ ra tăng điểm tấn công thuộc dạng cao nhất ở bản Rebirth. Tuy nhiên khả năng cận chiến của họ cũng thuộc dạng thấp và yếu như các class đánh phép khác. Đồng thời vũ khí của họ không được chia làm 2 dạng là Rapid Attack và Hold & Releash như các class đánh vật lý khác, vũ khí của họ chỉ có 1 dạng duy nhất. List Skill Trigger của Job này trong The World R:2 • - Thorn Shot (Tấn công 1 đối tượng, đánh dạnh thường, SP yêu cầu để sử dụng: 15, Job Lv. 1) • - Thunder Spark (Tấn công khu vực, đánh xuyên giáp, SP cầu để sử dụng: 22, Job Lv. 4) • - Plectra Bullet (Tấn công khu vực, đánh trên không, SP cầu để sử dụng: 18, Job Lv. 7) • - Tempest Blast (Tấn công khu vực, đánh xuyên giáp, SP cầu để sử dụng: 40, Job Lv. 12) • - Sphere Bullet (Tấn công khu vực, đánh trên không, SP cầu để sử dụng: 36, Job Lv. 16) • - Dust Bullet (Lv.3 Art, TargetTấn công khu vực, đánh trên không, SP cầu để sử dụng: 66*, Job Lv. 21) *Mỗi lần Steam Gunner tăng Job level sau khi học Dust Bullet, SP yêu cầu để sử dụng sẽ giảm theo thứ tự : 66,63,59,56,52,49,45,42,38,35. Thông tin thêm - Skills là Hyper Bullet được bỏ trong những giai đoạn cuối trước khi phát hành .hack//G.U. Games mà không rõ lý do. 10. Harvest Cleric Class này giống như được phân nhánh ra từ Wavemaster trong The World R:1. Vũ khí của họ là trượng, có sức tấn công vật lý chỉ cao hơn sách phép của Shadow Warlock. Đổi lại, trượng của họ cho điểm ma thuật ít hơn so với vũ khí của Shadow Warlock, dù điểm elemental là gần như nhau. Vũ khí của họ cũng chỉ có 1 dạng, không chia làm 2 dạng như các class đánh vật lý khác. Harvest Cleric học phép cực kỳ nhanh, gần như mỗi phép 1 level nhưng không có Arts. List các phép của Harvest Cleric • Repth (Hồi 100 Hp cho 1 đối tượng, Job Lv. 1) • Rip Duk (Chữa status : Poison cho 1 đối tượng, Job Lv. 2) • Rue Kruz (Water Elemental Attack vào 1 đối tượng, Job Lv. 3) • Rip Mumin (Chữa status : Sleep cho 1 đối tượng. Job Lv. 4) • Ul Repth (Hồi 200 Hp cho 1 đối tượng, Job Lv. 5) • Zan Rom (Wind Elemental Tornado Attack vào 1 khu vực, chống không , Job Lv. 6) • Rip Maen (Hồi sinh 1 đối tượng có Hp = 0 , Job Lv. 7) • La Repth (Hồi 100 Hp cho 1 khu vực, Job Lv. 8) • Rip Maj (Chữa status : Curse cho 1 đối tượng, Sp : 15, Job Lv. 9) • Ol Repth (Hồi 350 Hp cho 1 đối tượng, Sp : 80, Job Lv. 11) • Rip Fin (Chữa status : Seal cho 1 đối tượng, SP: 20, Job Lv. 11) • Ap Corv (Tăng P. Atk cho 1 đối tượng, SP: 15, Job Lv. 12) • Ap Corma (Chữa status : Paralysis cho 1 đối tượng, Sp : 15, Job Lv. 12) • Rip Suvi (Target: Unit, SP: 15, Cures Paralysis, Job Lv. 13) • Lau Repth (Hồi 200 Hp cho 1 khu vực, SP: 120, Job Lv. 14) • Ap Vorv (Tăng P. Def cho 1 đối tượng, SP: 15., Job Lv. 15) • Ap Vorma (Tăng M. Def cho 1 đối tượng, SP: 15, Job Lv. 15) • Pha Repth (Hồi đầy Hp 1 đối tượng, SP: 120, Job Lv. 16) • Rig Geam (Hồi Sp dần dần cho 1 đối tượng, SP: 35, Job Lv. 17) • Rig Saem (Hồi Hp dần dần cho 1 đối tượng, SP: 35, Job Lv. 17) • Lei Zas (Đánh Light Elemental vào 1 đối tượng, SP: 42, Job Lv. 18) • Lau Repth (Hồi 350Hp cho 1 khu vực, SP: 225, Job Lv. 19) • Rip Ranki (Chữa status : Confusion cho 1 đối tượng, SP: 30, Job Lv. 21) • Ap Do (Tăng speed cho 1 đối tượng, SP: 20, Job Lv. 21) • Rip Param (Chữa tất cả bad status cho 1 đối tượng, SP: 45, Job Lv. 22) • Phal Repth (Hồi đầy Hp cho 1 khu vực, SP: 338, Job Lv. 22) • Lapu Corv (Tăng P.atk cho toàn party, SP: 40, Job Lv. 23) • Lapu Corma (Tăng P.atk cho toàn party, SP: 40, Job Lv. 23) • LaRig Geam (Hồi Hp dần dần cho toàn party, SP: 90, Job Lv. 24) • LaRig Saem (Hồi Hp dần dần cho toàn party, SP: 90, Job Lv. 24) • Lapu Vorv (Tăng M.atk cho toàn party, SP: 40, Job Lv. 25) • Lapu Vorma (Tăng M.def cho toàn party, SP: 40, Job Lv. 25) • PhaRip Maen (Chọn 1 đối tượng đã có Hp = 0 và hồi sinh với 100% HP, Sp : 150, Job Lv. 26) 11. Shadow Warlock Class này giống như được phân nhánh ra từ Wavemaster trong The World R:1. Vũ khí của họ là sách phép, có sức tấn công vật lý thấp nhất trong các loại vũ khí. Đổi lại, sách phép của họ cho điểm ma thuật thuộc dạng cao nhất. Vũ khí của họ cũng chỉ có 1 dạng, không chia làm 2 dạng như các class đánh vật lý khác. Shadow Warlock học phép cực kỳ nhanh, gần như mỗi phép 1 level nhưng không có Arts. List các phép của Shadow Warlock • Rue Kruz ( Đánh Water Element vào 1 đối tượng, SP: 20, Job Lv. 1) • Duk Lei ( Gây status : Poison cho 1 đối tượng, SP: 15, , Job Lv. 2) • Zan Rom (Đánh Wind Element vào 1 khu vực, dạng : Tornado,Sp : 24 , Job Lv. 3) • Mumyn Lei (Gây status : Sleep cho 1 đối tượng, SP: 20, Job Lv. 4) • Gan Bolg (Đánh Earth Element vào 1 khu vực, dạng : Armor Piercing, SP: 32, Job Lv. 5) • Repth (Hồi 100 Hp cho 1 đối tượng, Job Lv. 1) • Vak Don (Đánh Fire Element xuống 1 khu vực, dạng : Drio ,SP: 36, Job Lv. 7) • Maj Lei (Gây status : Curse cho 1 đối tượng, Sp : 15 , Job Lv. 8) • Fin Lei (Gây status : Seal cho 1 đối tượng, Sp : 20 , Job Lv. 11) • Lei Zas (Đánh Light Element vào 1 đối tưọng, Sp : 42 , Job Lv. 11) • Dek Corv (Giảm P. Atk 1 đối tượng, SP: 12, Job Lv. 12) • Dek Corma (Giảm M. Atk 1 đối tượng, SP: 12, Job Lv. 12) • Suvi Lei (Gây status : Paralysis cho 1 đối tượng SP: 25, Job Lv. 13) • Ani Zot ( Đánh Dark Element vào 1 đối tượng, dạng : Rise,Sp : 48, Job Lv. 13) • Dek Vorv (Giảm P.def 1 đối tượng, SP: 12, , Job Lv. 14) • Dek Vorma (Giảm M.def 1 đối tượng, SP: 12, Job Lv. 14) • Ul Repth (Hồi 200Hp cho 1 đối tượng, Sp : 45, Job Lv. 15) • OrRue Kruz (Đánh Water Element vào 1 đối tượng, SP: 48, Element: Water, dạng: Coverage Job Lv. 15) • OrZan Rom (Đánh Wind Element, SP: 64, Dạng : Tornado, Job Lv. 16) • Ol Repth (Hồi 350 Hp cho 1 đối tượng, Sp : 80, Job Lv. 17) • OrGan Bolg (Đánh Earth Element vào 1 đối tượng, SP: 75, Dạng: Armor-Peircing, Job Lv. 18) • OrVak Don (Đánh Fire Element vào 1 đối tượng, SP: 84, Dạng : Drop, Job Lv. 19) • OrLei Zas (Đánh Light Element vào 1 đối tượng, SP: 198, Job Lv. 21) • Ranki Lei (Gây status : Confuse cho 1 đối tượng, Sp : 35 Job Lv. 22) • MiDek Corv (Giảm những player bên party đối phương 3 điểm P. Atk trong khu vực , Sp : 28, Job Lv. 23) • MiDek Corma (Giảm những player bên party đối phương 3 điểm P. Def trong khu vực , Sp : 28, , Job Lv. 23) • Dek Do (Giảm Speed 1 đối tượng, Sp : 20 Job Lv. 24) • MiDek Vorv (Giảm những player bên party đối phương 3 điểm M. Atk trong khu vực , Sp : 28, Job Lv. 25) • MiDek Vorma ((Giảm những player bên party đối phương 3 điểm M. Atk trong khu vực , Sp : 28,Job Lv. 25) • OrAni Zot (Đánh Dark Element vào 1 đối tượng, SP: 124, Dạng : Raise, Job Lv. 26)