Progressive metal – mặc dù không nằm trong nhóm extreme genres nhưng cũng có thể coi là một nhánh quan trọng và phát triển nhất từ heavy metal. Qua một thập niên 70s bùng nổ với làn sóng NWOBHM (New Wave of British Heavy Metal) mạnh mẽ cùng với một prog rock scene vốn đã rất vững chắc từ cuối thập niên 60s. Hệ quả tất yếu của đôi trai tài gái sắc, đứa con được thai nghén dữ dội – progressive metal đã chính thức ra đời. Chuyện xảy ra khi những cây gạo cội của prog rock – King Crimson, Rush hay Uriah Heep bắt đầu thể nghiệm những yếu tố từ heavy metal vào âm nhạc của mình. Đó là chuyện của những năm của thập niên 70s, phải cho tới thập niên 80s thì hai từ “progressive metal” (viết tắt – prog metal) mới được nâng lên thành khái niệm. Cũng giống như bộ ba King Crimson, Yes và Genesis điên đảo một thời của prog rock, thì một bộ ba mới của prog metal cũng xuất hiện và khuấy đảo giới nghe nhạc – Dream Theater, Queensryche và Fates Warning. Giữa thập niên 80s, bộ ba trên do ảnh hưởng mạnh từ những prog rock band và đam mê chất nhạc cứng rắn của heavy metal đã bắt đầu cho ra đời những album đầu tiên có thể nói là đặt nền móng cho một thể loại mới. Đầu tiên có thể kể tới hai album The Warning của Queensryche và Night on Brocken của Fates Warning đều được phát hành vào năm 1984. Dream Theater được thành lập vào năm 1985 và ngay sau đó đã cho ra đời hàng loạt các demo trước khi phát hành album đầu tiên – When Dream And Day Unite (1988). Cho đến thời điểm này, prog metal đã được định hình khá rõ ràng, kèm theo đó là sự phát triển của một cộng đồng fan khá đông đảo và mạnh mẽ. Cho tới đầu thập niên 90s, thì mới thực sự là giai đoạn nở rộ của prog metal. Hạt giống thuở nào giờ đã ra hoa cho quả... MTV - vốn được đánh giá là kẻ tử thù của metal, mặc dù vậy thì với những hit như Silent Lucidity (1990) của Queensryche hay Pull Me Under (1992) của Dream Theater lại trở thành một công cụ rất tốt để lăng xê cho ban nhạc với video được quay vòng thường xuyên. Mặc dù chúng chỉ là những bản ballad hay bài hát theo mô tuýp đơn giản. Nói rõ hơn về bộ ba, Queensryche nhanh chóng thu được thành công nhờ chất nhạc nhẹ nhàng đầy giai điệu của mình, chiều sâu nội dung cũng được khai thác triệt để qua các concept độc lập. Trong khi Dream Theater tập trung nhiều vào kĩ thuật và nhạc lí phức tạp thì Fates Warning là có một chất nhạc được đánh giá tương đối nặng nề. Thành công của bộ ba trên, ngoài củng cố được vị thế của prog metal cũng đồng thời mở ra nhiều ý tưởng mới cho các ban nhạc sau này. Bên cạnh đó cũng không thể không nhắc tới những cái tên như Crimson Glory, King’s X... đều gặt hái được những thành công cho riêng mình. Dream Theater Từ khoảng những năm 1990 trở đi, sự trỗi dậy của underground metal/extreme genres tạo tiền đề cho các prog metal band có chiều hướng phát triển mới. Death – ban nhạc huyền thoại kể từ album Human (1991) cũng dần mang cấu trúc của prog metal vào trong nền death metal của mình. Một cái tên nổi bật đáng nhắc tới khác chính là Opeth, khai thác mạnh mẽ hơn chiều sâu cảm xúc của prog metal để kết hợp với sự hà khắc dữ dội của death metal. Thậm chí những technical death metal band như Necrophagist, Pavor, Extol cũng lấy những tên tuổi prog metal làm ảnh hưởng chính cho âm nhạc của mình. Với thrash metal thì sao? Watchtower, Voivod, Toxik hay Aspid mê hoặc người nghe bằng tốc độ lẫn kĩ thuật của mình. Một số khác kể đến như Porcupine Tree hay Pain of Salvation vẫn mang thần thái ẻo lả của prog rock những năm 60-70s, mập mờ giữa ranh giới của prog metal với prog rock nhưng gặt hái được không ít thành công cũng như người hâm mộ cho dù không nhận được mấy thiện cảm từ những metalhead. Kể thêm một số yếu tố hay phong cách như symphonic, power, gothic hoặc neo-classical cũng được nhiều band ứng dụng vào prog metal, khiến đây trở thành một thể loại phong phú cũng như độc đáo nhất. Những công thức dạng như prog + death (Death, Opeth, Edge of Sanity), jazz/fusion + prog (Cynic, Atheist), gothic/psychedelic + prog (Green Carnation, Riverside, In The Woods), symphonic/power + prog (Ayreon, Symphony X) cũng không phải là quá khó gặp. Đặc điểm chung của prog metal để phân loại với những thể loại khác cơ bản không khác là bao so với prog rock: Các ban nhạc thường khi sáng tác thường cân bằng giữa hai yếu tố giai điệu và kĩ thuật. Nhìn chung thì những đoạn nhẹ nhàng thường được phân định rõ ràng với những đoạn riff nặng nề mang tiết tấu nhanh tuy tạo nên sự tương phản nhưng lại giao thoa hài hòa với nhau để trở thành đặc trưng riêng ở mỗi ca khúc. Về cấu trúc thì prog metal không tuân thủ theo những cấu trúc đã quá quen thuộc như verse-chorus-verse, verse-chorus-bridge-verse... nữa mà thay vào đó là sự phức tạp. Mặc dù vậy, với sự sáng tạo của người viết nhạc, sự phức tạp này sẽ không hề nhàm chán, bù lại mỗi ca khúc sẽ mang lại cảm giác mới lạ và đột phá cho người nghe. Với nhiều nhạc cụ sẽ tạo nên tính đa âm hưởng cho mỗi ca khúc. Nếu prog rock sử dụng mellotron hay syntherizer, thì những keyboardist của prog metal chinh phục người nghe bằng những đoạn solo gần như shred của mình. Ngoài ra, không gian nhạc/hiệu ứng producer cũng được một số ban nhạc mở rộng và khai thác như Strapping Young Lad hay Porcupine Tree. Như vậy, không chỉ riêng âm nhạc chuyển tải tới tai người nghe mà là cả một không gian đa chiều được tô vẽ lên. Chiều sâu nội dung. Lyrics của prog metal đa số nói về những vấn đề triết lí, trí tuệ cũng như đề cao cảm xúc. Một số album là cả một concept hoành tráng, là một câu chuyện hư cấu nhưng rất đỗi sâu sắc, để lại những vấn đề đáng suy tư cho người nghe. Những cung bậc hỉ-nộ-ái-ố, hay những khát khao thấm đẫm như khiến người nghe như nhập tâm vào âm nhạc. Thời lượng trung bình của mỗi bài hát khá là... dài. Trong đó nhịp điệu xoay vần và thay đổi liên tục. Nếu đã quen với nhạc lí cơ bản, với prog metal bạn sẽ thoát khỏi 4/4 cũ rích và bay lượn tới 6/8 hay thậm chí 12/8. Ví dụ như bài Metropolis Pt.1: The Miracle and the Sleeper của Dream Theater, bắt đầu với đoạn instrumental 13/8, sau chuyển nhịp sang 6/8 + 7/8 và sau cùng là 4/4 + 5/8. Prog metal vẫn duy trì tính trình diễn (presentive), khi bố trí nội dung theo kiểu concept thì phần lớn ảnh hưởng nhiều từ nhạc kịch và sân khấu. Ví dụ như album Metropolis Pt.2: Scenes from a Memory của Dream Theater hay The Human Equation của Ayreon. Vocal đa dạng bao gồm các kĩ thuật thanh nhạc như falsetto, high note,... thậm chí là cả operatic vocal. Những prog metal guitarist thường có trình độ đáng nể trong việc sử dụng nhạc cụ của mình, thậm chí trở thành những virtuoso hay shredder tiếng tăm như John Petrucci chẳng hạn? Riverside Về sự ổn định của các prog metal band, thì Dream Theater là một trong những ban nhạc thành công nhất với phong độ vững vàng qua từng album. Luôn tìm tòi khai thác những chất liệu mới, cảm hứng vô hạn và sáng tác không ngừng nghỉ. Dream Theater chính là một minh chứng rõ ràng cho sự phát triển của prog metal, ngay cả khi thập niên 90s đã qua và tồn tại cho tới tận ngày nay. Trải qua nhiều giai đoạn với lực lượng nòng cốt mạnh mẽ, prog metal tự định hình mình với rất nhiều phong cách. Những năm đầu tiên, khoảng đầu thập niên 80s, phần lớn ảnh hưởng bởi King Crimson, Genesis, Yes và NWOBHM (Judas Priest, Iron Maiden). Có thể chia ra làm hai phân nhánh chính: Porcupine Tree Progressive Power Metal Những năm tiếp theo, người Mỹ bắt đầu tiếp nhận ảnh hưởng từ châu Âu. Nhào trộn prog metal với power metal, vậy là progressive power metal ra đời. Những band giai đoạn này thường dễ dàng được nhận ra với những ca khúc với tiết tấu nhanh, falsetto vocal cùng giai điệu lả lướt. Thậm chí nó còn lan rộng sang cả châu Âu – nơi bắt đầu ý tưởng. Cho tới nay, prog power metal còn mang ảnh hưởng của tân cổ điển (neo-classical) tới cấu trúc cũng như chất liệu nhạc. Tiêu biểu như: Crimson Glory, Symphony X, Winds... Eclectic Progressive Metal Classic progressive metal cũng được hình thành vào cuối thập niên 80s, giai điệu, âm hưởng và không gian cũng được thể hiện khá nhiều, còn những yếu tố từ NWOBHM cũng không còn là gia vị chính trong chất nhạc tổng thể. Mặc dù vậy, sự bành trướng của Dream Theater đã trở thành một chuẩn mực mới cho prog metal. Hằng hà vô số những prog metal band sau này (modern progressive metal) vẫn thường được so sánh khá nhiều với Dream Theater. Tuy vậy, vẫn còn có những Threshold, Riverside hay Enchant khá ổn định, phần nào thể hiện chất riêng của mình. Opeth Nhưng nhiêu đó là chưa đủ. Như đã nêu ở trên, sự phát triển song song của extreme metal cũng góp phần làm hình thành những thể loại lai căng mới: Progressive Thrash Metal Những thrash band như Megadeth với album Rust In Peace (1990) hay Voivod cũng bắt đầu tích hợp những yếu tố của prog metal cho cấu trúc nhạc của mình. Hay cũng có thể nêu ra như Mekong Delta, Dark Angel hay Anacrusis. Ngoài tốc độ ra thì prog thrash metal đem lại sự phức tạp, kĩ thuật cũng như thời lượng đáng kể hơn so với thrash metal. Progressive Death Metal Cần được phân biệt với technical death metal. Nếu chỉ kĩ thuật thôi thì vẫn chưa đủ để đạt được tính progressive. Với thể loại này, những band tiêu biểu như Opeth, Edge of Sanity hay Disillusion giàu giai điệu hơn, kết hợp chất nhạc death metal với tính thẩm mỹ của prog metal, đồng thời mang lại một cấu trúc nhạc phức tạp biến hóa. Green Carnation Progressive Avant-garde Metal Mang nặng tính tiên phong. Những band thuộc dạng này thường thể nghiệm những yếu tố độc đáo mới lạ, sử dụng cả những nhạc cụ không phổ biến nhằm đem lại thứ âm nhạc đi ngược lại quy tắc của chính nó. Đa phần những band dạng này đều đến từ châu Âu (Bắc Âu), ví dụ như Arcturus, In The Woods... Bắc Mỹ cũng có Unexpect (Canada) hay maudlin of the Well (Mỹ). Progressive Black Metal Tính chất của dòng nhạc này khá giống progressive death metal. Chủ yếu sử dụng cấu trúc phức tạp nên có thể nói prog black metal là thể loại có kĩ thuật hơn so với black metal đơn thuần. Ví dụ như Borknagar, Enslaved, Ihsahn hay Vintersorg. Progressive Jazz/Fusion Metal Như tên gọi, thể loại này là một cấp độ cao hơn khi mà nó bưng bê cả kĩ thuật của jazz/fusion vào nhạc của mình. Những band như Cynic, Atheist hay Canvas Solaris chính là những minh chứng tiêu biểu với tông nhạc đậm chất jazz của mình. Bài viết trên đây chỉ mang tính chất cơ bản/khái quát, được bồi đắp thêm thông tin tham khảo từ progarchives và wikipedia. Rất mong nhận được các ý kiến góp ý.