Main Series

Thảo luận trong 'Final Fantasy Wiki' bắt đầu bởi king_dragontb, 15/7/10.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. king_dragontb

    king_dragontb ✯Final Fantasy Collector✯ Moderator Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    3/1/06
    Bài viết:
    4,167
    Nơi ở:
    Grand Line
    [​IMG]

    Tên game: Final Fantasy (ファイナルファンタジーFainaru Fantajī)

    [​IMG]

    Biên dịch: king_dragontb
    Chỉnh sửa: king_dragontb
    Nguồn:
    http://finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy

    [SPOIL]Final Fantasy (ファイナルファンタジー Fainaru Fantajī), còn được biết đến dưới tên The Original Final Fantasy hoặc Final Fantasy I trong các bộ sưu tập và cách gọi thông thường, là một gảm nhập vai do Square Co.,Ltd phát triển dành cho hệ máy Nintendo System Entertainment. Nó được phát hành năm 1987, là lá cờ đầu cho một series game huyền thoại.

    Final Fantasy sau này được làm lại cho một số hệ máy chơi game console và máy cầm tay như máy tính MSX2 (chuyển thể và phát hành bởi Microcabin), máy Bandai WonderSwan Color. Nó cũng có bản dành cho 2 loại điện thoại di động của Nhật: series NTT DoCoMo FOMA 900i (Final Fantasy I) và series CDMA 1X Win của au/KDDI (Final Fantasy EZ), hỗ trợ cả hãng điện thoại Sprint tại Mỹ. Game thường xuyên đi kèm với bản Final Fantasy II. Bộ 2 game này đã từng phát hành cho máy tính gia đình, PlayStation và Gameboy Advance. Final Fantasy là game thứ 16 được Nobuo Uematsu viết nhạc.

    Gameplay

    Final Fantasy bắt đầu bằng việc cho phép người chơi chọn nghề nghiệp và tên cho 4 Light Warrior. Là game tiêu biểu cho dòng nhập vai thời bấy giờ, người chơi ít nhiều khá bị động trong cốt truyện nên việc lựa chọn này chỉ đóng vai trò quyết định kĩ năng của các Light Warrior. Có 6 loại nhân vật là:

    - Warrior (Fighter) - Chuyên gia về vũ khí và giáp hạng nặng có khả năng chịu đòn cao. Sau này nâng cấp thành Knight có thể dùng hầu hết các loại vũ khí mạnh nhất và một vài White Magic.

    - Monk (Black Belt) - Võ sư rất mạnh trong chiến đấu tay không nhưng cũng có thể mang côn nhị khúc hay gậy. Sức sát thương của nhân vật này rất cao nhưng lại không mang được giáp nặng, sau này trở thành Master. Ở bản gốc trên máy Famicom, Master level cao không sợ bất cứ loại giáp nào, có khả năng gây tổn hại lớn chỉ bằng một đòn hơn tất cả các nhân vật còn lại. Một party gồm 4 Master có thể đánh bại trùm cuối chỉ trong 2 lượt đi.

    - Thief - Một dạng Fighter yếu, sử dụng được ít loại vũ khí và áo giáp nhưng chỉ số agility và luck lại cao hơn (agility để trốn thoát khỏi trận chiến). Lớp nhân vật này vẫn có khả năng sát thương cao nhờ vào chỉ số hit cao. Thief nâng cấp trở thành Ninja, dùng được hầu hết các loại vũ khí, giáp và nhiều loại Black Magic.

    - White Mage - Chuyên về White Magic, kĩ năng chiến đầu kém, có thê dùng được búa, nâng cấp trở thành White Wizard, cho phép người chơi thi triển được những White Magic mạnh nhất trong game.

    - Black Mage - Chuyên gia sử dụng Black Magic và là dạng chiến binh cực yếu. Sau này trở thành Black Wizard, nhân vật duy nhất thi triển được phép Flare (NUKE trong bản cho Bắc Mỹ), một trong hai phép thuật sát thương lớn nhất với Chaos (White Wizard dùng được phép còn lại là Holy nhưng sức mạnh kém hơn Flare)

    - Red Mage - Nhân vật này khá tháo vát, sử dụng được cả hai loại White và Black Magic nhưng không phải tất cả, kĩ năng chiến đấu khá tốt tuy không bằng Fighter. Sau này trở thành Red Wizard.

    [​IMG]
    Đặt tên cho nhân vật

    Gameplay giống với rất nhiều game nhập vai console khác. Người chơi tự do di chuyển trong world map, đụng độ quái vật một cách ngẫu nhiên, được phép lựa chọn đánh hay bỏ trốn. Khi giành chiến thắng người chơi nhận được Gil, dùng để mua vũ khí, áo giáp, item hỗ trợ, phép thuật; và điểm kinh nghiệm, tích lũy đủ sẽ lên level để tăng cường sức mạnh, khả năng chịu đòn (còn được gọi là Hit Points hay HP). Người chơi có thể vào các thành phố thị trấn trên bản đồ để tránh quái vật, hồi phục HP, phép, tìm thông tin bằng cách nói chuyện với người dân và đi mua sắm. Battle thiết kế kiểu theo lượt, trong đó người chơi lựa chọn hành động cho nhân vật (tấn công, dùng phép, bỏ chạy v.v…), khi hoàn tất nhân vật sẽ thi triển những hành động đó, quái vật thì đánh trả tùy vào chỉ số Agility của chúng.

    [​IMG]
    Một trận chiến trong bản NES

    Cốt truyện

    Final Fantasy có địa điểm là một thế giới không tên với 3 lục địa lớn. Nền tảng sức mạnh của thế giới này được điều khiển bởi 4 viên crystal phát sáng (bản cho Bắc Mỹ là “orb”), đại diện cho 4 nguyên tố: đất, nước, lửa và gió.

    Trong 2 thế kỉ trước sự kiện bắt đầu game, những cơn bão lớn đã nhấn chìm một ngôi đền tượng trưng cho nền văn minh đại dương, khi đó water crystal ngừng phát sáng. Sau đó, một nhóm người mang tên Lufenian, những người dùng sức mạnh của gió để tạo nên các pháo đài bay và airship, đã phải chứng kiến đất nước mình suy tàn khi wind crystal lụi tắt. Cả earth và fire crystal cũng như vậy, khiến cho mặt đất tràn ngập lửa, phá hủy thành phố nông nghiệp Melmond, được coi là vựa lúa và rau màu. Một thời gian sau, một hiền nhân tên Lukahn đã tiên đoán rằng sẽ có 4 Light Warrior tới giải cứu thế giới.

    Trò chơi bắt đầu với sự xuất hiện của 4 Light Warrior trẻ tuổi, các nhân vật chính. Họ mang bên mình những viên crystal đã tắt lụi, đi về phía Cornelia, một vương quốc hùng mạnh. Công chúa Sarah ở đây mới bị Garland, một tên hiệp sĩ xảo trá bắt cóc với mục đích thôn tính vương quốc. Các Light Warrior đã đi tới ngôi đền đổ nát Chaos, đánh bại Garland để giải cứu công chúa Sarah. Vua Cornelia rất cảm kích đã cho xây dựng 1 cây cầu cho phép các Hiệp sĩ đi tới vùng phía đông đất nước.

    Tiến về phía đông, họ được biết một pháp sư Dark Elf tên là Astos đang tàn phá khu vực xung quanh vùng biển của lục địa phía nam, Elfheim, đánh cắp viên crystal mà phù thủy Matoya canh giữ, khiến cho hoàng tử của loài Elf bị hôn mê, hắn còn lấy cả vương miện của một nhà vua ở phía tây. Trên đường đi, các Hiệp sĩ đã giải phóng thị trấn Pravoka khỏi một băng cướp biển và sử dụng tàu của chúng để du hành. Lúc này họ đã có thể đi qua sông qua biển, nhưng lại bị mắc kẹt tại vùng biển Aldean, nằm giữa một lục địa lớn. Một tảng đá khổng lồ đã chắn ngang lối ra duy nhất. Một nhóm người lùn ở núi Duergar đang cố gắng phá hủy tảng đá nhưng họ cần có Nitro Powder, cất giấu trong 1 căn phòng khóa kín tại lâu đài Cornelia mà chiếc chìa khóa duy nhất để mở lại ở trong tay hoàng tử Elf đang hôn mê. Sau đó họ tìm lại được chiếc vương miện nhưng lại phát hiện ra rằng vị vua bị đánh cắp thực ra là Astos. Đánh bại được Astos, các Light Warrior cũng tìm lại được viên crystal của Matoya, trả nó về chủ cũ. Vị phù thủy này đã chế ra một thứ thuốc có thể đánh thức được hoàng tử. Hoàng tử khi tỉnh dậy đã trao cho họ Mystic Key để mở căn phòng khóa tại lâu đài Cornerlia lấy Nitro Powder. Có được Nitro Powder, những người lùn phá hủy được tảng đá chắn đường, giúp cho 4 Hiệp sĩ có thể du hành đến một thế giới rộng lớn hơn.

    Căng buồm đến Melmond, các Hiệp sĩ phải đánh bại Quái vật Đất Lich, kẻ gây ra sự mục nát cho mặt đất. Sau đó họ tiến vào núi lửa Gulg, hạ hục Quỷ Lửa Marilith (Kary), thức tỉnh cách đây 200 năm. 4 Hiệp sĩ Ánh sáng còn nhận được một chiếc airship và tới đảo Cardia để gặp vua rồng Bahamut. Tại đây họ phải trải qua thử thách sống sót ở Lâu đài Thử thách (Citadel of Trials) và chứng minh những việc đã làm. Khi quay về họ được trao những nghề nghiệp (Job) cải tiến hơn. Các Light Warrior sau đó đánh bại được Thủy Quái Kraken trong một cung diện dưới đáy biển gần Onrac; và Quỷ Gió Tiamat trong một chiếc pháo đài bay. Bốn quái vật bị đánh bại, crystal được phục hồi nhưng nhiệm vụ của họ vẫn chưa chấm dứt khi trước đó các quái vật cùng nhau đã tạo ra một con quỷ dữ mang tên Chaos từ thi thể của Garland, gửi hắn về quá khứ 2000 năm. Theo Chaos về quá khứ, các Hiệp sĩ phát hiện ra rắng chính Chaos là kẻ gửi 4 con Quái Đất, Nước, Lửa, Gió đến tương lai, tạo ra một vòng nghịch lí thời gian.

    Các Hiệp sĩ Ánh sáng, dù đánh bại được Chaos và trở về thời kì của mình nhưng họ đã phá vỡ vòng thời gian, cả thế giới không còn biết gì về những gì đã xảy ra cũng như các Hiệp sĩ quên lãng hoàn toàn cuộc phiêu lưu của họ.

    Quá trình phát triển

    Final Fantasy được phát triển sau khi các tựa game khác của Square không mấy thành công. Dự định sẽ nghỉ hưu sau dự án, chủ tịch Square Co. đồng thời là nhà sản xuất/đạo diễn Hironobu Sakaguchi tuyên bố rằng game cuối cùng (final) của ông sẽ là một game fantasy RPG, từ đó tạo thành tiêu đề cho trò chơi. Tuy nhiên, Final Fantasy lại đạt thành công vang dội tại Nhật, trở thành tựa game RPG thứ hai cực kì phổ biến (sau Dragon Quest của Enix). Tiếp nối thành công của phiên bản nội địa hóa tại Bắc Mỹ của Dragon Quest (hay Dragon Warrior), Nintendo đã chuyển thể Final Fantasy sang tiếng Anh, phát hành tại Mỹ năm 1990. Tuy nhiên phiên bản Bắc Mỹ của Final Fantasy chỉ đạt những thành công khiêm tốn, phần nào là do chiến lược marketing của Nintendo. Không một bản nào của game được đưa ra thì thường châu Âu hay châu Úc mãi đến tận bản Final Fantasy Origin năm 2003.

    Final Fantasy cùng Dragon Quest đã ảnh hưởng rất lớn tới dòng game nhập vai console. Đồ họa và âm thanh của game là một nỗ lực đáng nể so với thời đó. Nhiều nhà phê bình lại cho rằng game chưa đạt tiêu chuẩn thời đại và tiêu tốn quá nhiều thời gian để tăng điểm kinh nghiệm và tiền bằng các trận đánh ngẫu nhiễn hơn là việc khám phá và giải đố. Tuy nhiên đây lại là một chuản mực cho game nhập vai thời đó, tồn tại đến tận giữa những năm 1990.

    Final Fantasy đã được làm lại vài lần cho một số hệ máy, giữ lại hoàn chỉnh cốt truyện và hệ thống battle, chỉ có thay đổi một số điểm bao gồm đồ họa, âm thanh và các yếu tố gameplay riêng biệt, tạo nên đặc trưng cho mỗi bản remake.

    Bản máy tính gia đình đến bản MSX2


    [​IMG]
    Một trận đánh trong bản MSX2

    Máy tính MSX2 có đặc điểm về công nghệ khá giống với máy Famicom/NES vì thế bản MSX2 của Final Fantasy là bản giống nhất với bản nguyên thủy trên Famicom. Tuy nhiên, trong khi Famicom được thiết kế để trở thành một máy chơi game chuyên dụng thì MSX2 lại được sử dụng như một máy tính cá nhân hơn. Điều này có nghĩa là trò chơi đã được thay đổi một cách khôn khéo để tận dụng ưu thế của máy MSX2 mà máy Famicom không có, và ngược lại.

    - Format: Phát hành trên đĩa mềm (floppy), phiên bản MSX2 có lợi thế về dung lượng lưu trữ gấp 3 lần bản Famicom (720 KB so với 256 KB) nhưng lại gặp phải những vấn đề mà loại băng cartridge của Nintendo không mắc phải, ví dụ như thời gian load game.
    - Thay đổi đồ họa: Hầu như không có thay đổi. MSX2 cung cấp thêm 1 bản màu để tăng cường sự cộng hưởng giữa nhân vật và môi trường. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng việc lựa chọn màu đôi khi có vè “vô tác dụng” và tranh cãi về việc chất lượng đồ họa máy Famicom là cao hơn cho dù công nghệ của MSX2 vượt trội hơn.
    - Thay đổi về những trận đánh ngẫu nhiên: World map có vẻ có sự dịch chuyển nhỏ, đồng nghĩa với việc khu vực có quái vật cũng dịch chuyển đôi chút, và địch thủ xuất hiện ở những chỗ khác so với bản Famicom.
    - Sự khác nhau trong hệ thống lưu game: Dữ liệu game không thể lưu trong đĩa gốc nên cần phải có một đĩa trắng để lưu. Vì một vài lí do mà chỉ có thể lưu game 1 lần trên mỗi đĩa.
    - Nâng cấp hình ảnh và âm thanh: Máy MSX2 có nhiều kênh âm thanh hơn Famicom, khá nhiều bản nhạc, âm thanh đã được thay đổi hoặc cải tiến. Một vài nhạc trong dungeon được hoán đổi cho nhau.
    - Những tinh chỉnh nhỏ khác: Trong bản Famicom, sức mạnh của một Black Belt được tăng mỗi khi lên level, có nghĩa là người chơi có thể đạt tới điểm mà Black Belt ra đòn bằng tay không gây sát thương lớn hơn vũ khí khá sớm. Trong bản MSX2, Black Belt không mạnh lên kiểu như thế, nhân vật này không thể chiến đầu tay không một cách hiệu quả. Một vài item trong shop cũng thay đổi giá cả.

    Bản máy tính gia đình đến bản Nintendo Entertainment System

    [​IMG]
    Logo trong bản NES

    Bản nội địa hóa của Final Fantasy tại Bắc Mỹ gần như giống hoàn toàn với bản Nhật. Tuy nhiên do giới hạn về công nghệ cũng như chính sách kiểm duyệt của Nintendo Mỹ nên đã có những thay đổi nhỏ:

    - Rút ngắn tên magic: Chương trình game gốc chỉ cho phép 4 kí tự trong tên magic nên rất nhiều tên phép thuật đã bị rút gọn lại cho phù hợp, ví dụ “Flare” chuyển thành “NUKE”, “Thunder” thành “LIT” và “Warp” rút lại còn “ZAP!”.
    - Kiểm duyệt phát hành: Nintendo Mỹ ngăn cấm game không dược dùng những hình ảnh của Judeo-Christian hay liên quan tới cái chết. Vì thế hình ảnh đã bị chỉnh sửa đôi chút, các nhà thờ đã không còn những cây thánh giá.

    Bản máy tính gia đình tới bản WonderSwan Color

    Rất nhiều thay đổi được giới thiệu trong bản remake này.

    [​IMG]
    Logo bản WSC

    - Nâng cấp đồ họa: Hình ảnh 8-bit trong bản Famicom đã được vẽ lại hoàn toàn trong bản WSC, đưa game bắt kịp với thời đại 16-bit. Bảng màu lớn hơn nhiều và các cảnh battle đã sử dụng cảnh nền đầy đủ.
    - Ngang bằng với các game sau này: Hình nhân vật (đặc biệt là các nghề nghiệp nâng cấp) được thiết kế lại để nhìn giống với nhân vật trong các game Final Fantasy trên máy Super Famicom. Ở bản Famicom, shop và nhà nghỉ không có cảnh bên trong, khi nhân vật vào trong nhà thì chỉ có menu mua - bán. Trong bản WSC, điều này được thay đổi tương tự với các game khác trong series, mỗi tòa nhà đều có cảnh nội thất, thêm cả phản hồi của shop để truy cập vào màn hình giao dịch. Màn hình battle cũng thiết kế lại, các thông tin dạng chữ được chuyển vào một cửa sổ màu xanh ở dưới cùng, một sự sắp xếp khá giống với Final Fantasy II đến Final Fantasy VII.
    - Thêm cắt cảnh: Những đoạn cắt cảnh ngắn, sử dụng chính engine của game đã được thêm vào để mở rộng cốt truyện game. Một đoạn trong số đó kể về việc xây dựng cây cầu của quân đội Cornelia.
    - Mở rộng về hiển thị chữ: Bản Famicom nguyên gốc không có khả năng hiển thị nhiều hơn 1 cửa sổ thoại trong mỗi cuộc nói chuyện, có nghĩa là các cuội hội thoại với nhân vật phụ bị giới hạn trong độ dài. Bản WSC đã khắc phục được điểm này.
    - Trong phiên bản gốc, bất cứ sự cố gắng để tấn công một quái vật đã chết trước đó bởi một nhân vật khác đều có kết quả là một đòn tấn công “vô tác dụng”. Bản WSC đã đưa ra một tùy chỉnh cho phép đòn đánh áp dụng vào quái kế tiếp thay vì thất bại. Bên cạnh đó, chọn lựa “dash” cũng được giới thiệu: giữ một phím đặc biệt khi đi trong một thị trấn hoặc một dungeon sẽ khiến nhân vật di chuyển với tốc độ gấp 2 lần bình thường. Cả 2 tùy chọn này đều có thể thay đổ trong màn hình hiệu chỉnh của game.
    - Có thể xóa được phép thuật: Giống như bản gốc, mỗi magic nhân vật sử dụng sẽ có các level kế tiếp. Mỗi nhân vật chỉ có 3 slot trong mỗi level nhưng lại cho lựa chọn trong số 4 phép. Một khi đã lựa chọn thì bạn không có cách nào bỏ đi được để có chỗ cho phép thứ 4. Trong bản WSC, điều này được thay đổi, cho phép bạn xóa magic đã học.
    - Thêm slot lưu game: Băng cartridge của máy Famicom chỉ cho phép lưu 1 dữ liệu, mỗi khi save game mới được tạo, save cũ sẽ bị thay thế. Bản WCS cung cấp tới 8 slot để lưu trữ, có cả lựa chọn “quick save” - lưu nhanh cho phép người chơi lưu game bất cứ lúc nào (trừ lúc trong battle). Sau khi lưu nhanh trò chơi sẽ thoát ngay lập tức và mỗi khi quay lại game, dữ liệu đó sẽ bị xóa.
    - Thay đổi hệ thống item: Ở bản gốc, chỉ có những item ấn định cho một nhân vật nào đó mới có thể sử dụng trong battle trong khi ở bản WSC, mọi nhan vật đều có thể sử dụng item ở bất cứ lúc nào. Những item và phép thuật hồi phục trạng thái (như “Life” hay “Soft”) nay có thể dùng trong battle. Trạng thái “Silence” giờ đã không còn ngăn không cho sử dụng item nữa.
    - Bổ sung nhạc nền: Nhạc sĩ Nobuo Uematsu đã soạn thêm một số bài mới, gồm cả một bài “boss battle”
    - Boss thêm nhiều HP: Vì những thay đổi ở trên làm game trở nên đơn giản hơn nên HP của quái và tất cả các boss đều được tăng lên (đôi khi là gấp đôi) để có sự cân bằng trong gameplay.

    Bản WonderSwan Color tới bản Final Fantasy Origin

    Phiên bản làm lại của Final Fantasy được phát hành cùng với bản Final Fantasy II trong bộ sưu tập có tên Final Fantasy Origin ( Ở Nhật là Final Fantasy I+II Premium Collection). Cả 2 game này làm dựa trên bản WSC, hầu hết những thay đổi đều được giữ lại chỉ có một số điếm khác:

    - Độ phân giải cao hơn: Mặc dù hình ảnh về cơ bản giống với WSC nhưng độ phân giải cao hơn của máy PlayStation cho phép game được cải thiện thêm một số chi tiết.
    - Soundtrack phối âm lại: Nobuo Uematsu đã phối âm lại nhạc theo chất lượng của Final Fantasy IX để phù hợp với chất lượng âm thanh của máy PS và sáng tác một vài bài mới sử dụng cho đoạn phim mở đầu.
    - Sửa lại lời thoại: Trong bản tiếng Nhất, lời thoại sửa lại để thêm chữ kanji. Bản dịch sang tiếng Anh cũng được viết lại toàn bộ cho giống bản tiếng Nhật hơn. Tên nhân vật cũng như tên magic được tăng số kí tự từ 4 lên 6.
    - Thêm nhiều save slot: Dữ liệu game được lưu trong 1 khu vực trên memory card của máy PS, có thể lưu tới 15 slot trên mỗi card. Chức năng “quick save” bị lược bỏ, thay vào đó là “memo save”, dữ liệu game được nạp vào RAM của máy, bị xóa khi tắt máy hoặc mất nguồn.
    - Thêm phim cắt cảnh và phần thưởng: Game được làm thêm hai đoạn FMV cùng một “omake” (phần thưởng thêm) bao gồm một bộ truyện ngụ ngôn, một bộ tranh ảnh và bộ sưu tập item, được mở khóa trong quá trình chơi.
    - “Easy Mode” mới: Chế độ chơi “Easy Mode” được giới thiệu với giá đồ trong shop rẻ hơn, điểm kinh nghiệm lên level ít đi và kiếm được dễ hơn, chỉ số trạng thái tăng nhanh hơn. Chế độ này được tự do lựa chọn khi bắt đầu game.

    Final Fantasy Origin đến Final Fantasy I & II: Dawn of Souls


    Những thay đổi trong bản Gameboy Advance của Final Fantasy - một phần trong Final Fantasy I & II: Dawn of Souls là khá nhiều.

    [​IMG]
    Trận chiến với Phantom Train

    - Giảm độ khó: Độ khó của bản GBA gần với “Easy Mode” của Final Fantasy Origin nhưng lại không có lựa chọn quay về độ khó như bản nguyên gốc. Chọn lựa định vị lại đòn tấn công “vô hiệu” ở bản WSC có thể bật hoặc không thì bây giờ là yếu tố bắt buộc.
    - Độ phân giải giảm đi, so với bản PlayStation. Hình ảnh ít nhiều tương tự với bản WSC mặc dù máy GBA có độ phân giải cao hơn máy WSC. Các cảnh tĩnh (như lúc bay bằng airship) có phần đẹp hơn trên bản GBA.
    - Hệ thống magic mới: Hệ thống “magic level” trong bản này được thay thế bằng hệ thống “magic point” sử dụng trong những game Final Fantasy gần đây. Tuy phép thuật vẫn được phân loại cho từng level nhất định vì một vài lí do (nhân vật vẫn chỉ có thể trang bị 3 trong số 4 magic cho phép) nhưng mỗi magic bây giờ đã được cấp 1 điểm giá trị, khi thi triển, giá trị đó được trừ đi từ tổng số magic point (MP), áp dụng cho tất cả các phép thuật mà nhân vật biết.
    - Hệ thống item mới: Rất nhiều item mới được bổ sung, bao gồm item hồi sinh “Phoenix Down”. Item chữa trị giờ kiếm được dễ dàng hơn, giá rẻ hơn. Nhóm của bạn bắt đầu game với 500 Gil thay vì 400 Gil như trước kia.
    - Phần thưởng ẩn: Triển lãm tranh ảnh và bộ sưu tập item trong Final Fantasy Origin bị bỏ đi nhưng bộ truyện ngụ ngôn vẫn được giữ lại.
    - Một sô thay đổi linh tinh: Các lớp nhân vật được chỉnh sửa lại, Thief và Monk mạnh hơn trong khi Red Mage yếu đi. Tăng trưởng của chỉ số cũng thay đổi, Intelligence bây giờ ảnh hưởng đến sức mạnh của vũ khí phép thuật.
    - Thay đổi trong hệ thống lưu game: Trò chơi bây giờ có thể lưu ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào (tất nhiên là vẫn loại trừ lúc đang chiến đấu). Có 3 slot cho phép save.
    - Quái vật có thêm HP: Những thay đổi của phiên bản này khiến game trở nên quá ít thử thách nên nhiều quái vật và boss đã được tăng cường HP.
    - Tự động đặt tên: Khi tạo nhân vật, người chơi có thể lựa chọn tên ngẫu nhiên cho từng nhân vật. Những tên này được lấy từ những phiên bản Final Fantasy khác như Desh (Final Fantasy III), Giott (Final Fantasy IV), Kelga (Final Fantasy VI) và Daryl (Final Fantasy VI).
    - Soul of Chaos: 4 dungeon phụ được thêm vào, tương ứng với 4 quái vật chính trong game, xuất hiện sau khi mỗi con bị đánh bại. Những dungeon này thực sự rất thử thách, cung cấp những item và quái vật không tìm được ở bất cứ nơi nào. Cuối mỗi dungeon luôn có những con boss ở trong các phần Final Fantasy sau, ví dụ Ahriman (Final Fantasy III), Rubicante (Final Fantasy VI), Gilgamesh (Final Fantasy IV), Ultros (Final Fantasy VI).

    Final Fantasy 20th Anniversary Edition

    [​IMG]
    Menu của bản PSP

    Để kỉ niệm 20 năm ngày phát hành phiên bản đầu tiên trong series Final Fantasy, Square đã công bố một bản làm lại khác, lần này cho máy PlayStation Portable. Phần âm nhạc lấy từ Final Fantasy Origin, lời thoại gần giống với bản GBA. Những thay đổi bao gồm:

    - Độ phân giải cao hơn: Hình ảnh đã được nâng cấp một lần nữa và có thêm nhiều chi tiết hơn. Hiệu ứng được thêm cho thành phố và dungeon.
    - Soul of Chaos Dungeon: Nhừng dungeon ở bản Dawn of Souls vẫn được giữ lại. Nhạc đánh boss được thay đổi.
    - Labyrinth of Time: Đây là dungeon bổ sung cho phiên bản này và cũng là dungeon khó nhất trong game, con superboss mới ở đây thậm chí còn khó đánh hơn cả Omega, Shinryu và Chaos.
    - Triển lãm tranh của Amano: Phần này có từ bản Final Fantasy Origin và giờ lại xuất hiện.
    - Cảnh phim CGI: Có từ bản PlayStation và tiếp tục được sử dụng.

    [​IMG]
    Một trận đấu trong bản PSP

    Final Fantasy cho iPhone, iPod Touch và iPad

    [​IMG]
    Logo game khi chuyển lên bản co iOS

    Đây là phần chuyển thể của 2 phiên bản đầu cho iPhone OS, có bán trên US iTunes Store với giá $8.99, tại UK iTunes Store có giá £5.50. Cả 2 game có đồ họa gần giống Anniversary Edition và có cả những dungeon đặc biệt từ bản đó. Gameplay của Final Fantasy giữ nguyên so với bản PSP trong khi bản Final Fantasy II chi iPhone thêm những yếu tố mới trong gameplay cho phù hợp với cách điều khiển kiểu cảm ứng. Game phát hành ngày 25 tháng 2, là một game có đồ họa HD.

    [​IMG]
    Battle bản trên iOS

    Phiên bản này của Final Fantasy có bao gồm “quick save” (nhưng không được gọi như vậy trong game) cho phép lưu vị trí hiện tại của người chơi cho dù đang ở trên world map hay trong dungeon khi đóng chương trình lại. Có nghĩ là nếu game bị ngắt quãng khi trở về màn hình chính, nhận cuộc gọi hay là điện thoại bị đưa về sleep mode hoặc kết nối thiết bị với máy tính, game sẽ quay lại vị trí cũ khi chọn phần “Resume” trong menu chính.

    Một số thông tin thêm

    - Trong Final Fantasy IV: The After Years, 4 quái vật của Final Fantasy là những kẻ canh giữ cho những viên Crystal True Moon.
    - Thế giới Final Fantasy Có một điểm có chứa các summon, được nói đến trong Dissidia Final Fantasy, nhưng Garland đã tàn sát toàn bộ vùng đó.
    - Một vài quái vật trong game được lấy từ phiên bản đầu của game nhập vai Dungeons & Dragons như Mindflayer hay Ochu.
    - Bản Famicom gốc và bản MSX có một vài khác biệt về đồ họa. Hai thay đổi rõ ràng nhất là ở hai loại quái: Medusa nguyên gốc là để hở ngực, còn Eye nguyên bản là Beholder trong Dungeons & Dragons. Những phiên bản sau thay đổi việc này. Hình Beholder được phục hồi trong Dissidia làm biểu tượng cho người chơi nhưng hình sửa lại của Master, Red Wizard và White Wizard giữ nguyên.
    - Một vài yếu tố lặp lại của series Final Fantasy không xuất hiện mãi đến sau này. Final Fantasy bản gốc không có nhân vật nào tên Cid nhưng trong bản Dawn of Souls lại nhắc đến Cid xứ Lufaine. Đây cũng là game duy nhất không có Chocobo, và là 1 trong 3 game thuộc main series không có Moogle.
    - Phiên bản NES có một chi tiết về Link, nhân vật chính trong The Legend of Zelda. Tại thành phố Eflheim, một viên đá có khắc “Tại đây yên nghỉ Link 837 - 866” (“Here lies Link 837 - 866 R.I.P”). Trong bản PSP cũng như Dawn of Souls, điều này được làm lại cho người chơi Bắc Mỹ, khi họ tới bia mộ, nó có khắc “Nơi đây yên nghỉ Link”. Ngoài ra rất nhiều yêu tinh trong bản PSP có nét tương đồng đến lạ kì với Link.

    Original Famicom version
    Original Concept & Lead Designer — Hironobu Sakaguchi
    Co-Designer — Akitoshi Kawazu
    Character Design — Yoshitaka Amano
    Programmer — Nasir Gebelli
    Scenario — Kenji Terada
    Music — Nobuo Uematsu

    PlayStation remake
    Executive Producer — Yoichi Wada
    Producer — Yusuke Hirata
    Production Manager — Kiyomi Tanikawa
    Directors — Hideshi Kyonen, Katsuyoshi Kawahara và Kazuhiko Yoshioka
    Movie Director — Koji Wakasono
    Movie Designers — Mitsuhira Yamado, Satoshi Sumida, Masata Motoki, Yutaka Maekawa, Wataru Ikeda, Shin Azuma và Rumiko Sawada
    Movie Programmer — Naoto Uenaka
    Original Music — Nobuo Uematsu
    Graphics — Yoshisuke Nakahara, Mieko Hoshino, Tomohiko Tanabe, Hideki Omori và Eiji Yamashita
    Testing — Reiko Kondo
    Localization Manager — Akira Kashiwagi
    Localization Directors — Tomoko Sekii and Kazuyoshi Tashiro
    Localization Programmer — Yoshinori Uenishi
    Localization Specialist — Amanda J. Katsurada
    Localization Assistant — Satoko Kondo[/SPOIL]
     
  2. NavaRose

    NavaRose Legend of Zelda Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    8/2/06
    Bài viết:
    1,137
    Nơi ở:
    Midgar City
    [​IMG]
    Tên game: Final Fantasy IV (ファイナルファンタジーIV Fainaru Fantajī IV)

    [​IMG]

    Biên dịch: NavaRose
    Chỉnh sửa: NavaRose
    Nguồn: http://finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_IV

    [spoil]
    Final Fantasy IV (ファイナルファンタジーIV Fainaru Fantajī IV)là game thứ tư nằm trong series game Final Fantasy. Ban đầu, game phát hành cho hệ máy Super Nintendo Entertainment System, sau đó là lần lượt phát hành trên các hệ máy PlayStation, WonderSwan Color, Game Boy Advance và Nintendo DS. Ban đầu phiên bản này được sản xất tại Bắc Mỹ với tên là Final Fantasy II. Tiếp đó, Final Fantasy IV: The After Years, được sản xuất trên nền mobile phone vào tháng 2 năm 2008. Và sau cùng là phiên bản cho hệ WiiWare ở US vào ngày 1 tháng 6 năm 2009.

    Gameplay
    [​IMG]
    Gameplay trong Final Fantasy IV mang đặc trưng của hệ thống đánh theo lượt của thể loại game nhập vai Nhật Bản (JRPG); Các nhân vật sẽ du hành khắp nơi trong thế giới game và thực hiện các nhiệm vụ khác nhau trong game, ở trong các thị trấn, làng mạc, trong game để tăng sức mạnh, mua sắm trang bị, và khám phá các bí ẩn trong cốt truyện, giành nhiều thời gian để chiến đấu với các quái vật trong game. Game cũng giới thiệu hệ thống chiến đấu đặc trưng của Squaresoft là Active Time Battle (ATB), điều này đã mang tính đột phá khi các phiên bản Final Fantasy trước (và các game RPGs hiện tại)chưa có, các nhân vật sẽ chỉ có thể nhập lệnh điều khiển nhân vật chiến đấu khi các thanh ATB lên đầy theo thời gian. Hệ thống ATB này sẽ góp vai trò chủ đảo trong battle system của các game trong dòng Final Fantasy sau này, cũng như là các game được sản xuất bởi Square, bao gồm Chrono Trigger và Final Fantasy X-2.

    Trong trận đánh, mỗi nhân vật đều có điểm mạnh và điểm yếu khác nhau, bao gồm cả sức mạnh ma thuật và các kỹ năng đặc biệt tùy thuộc vào nghề nghiệp (Job) của họ. Cũng giống như đa số các game Final Fantasy khác, nhân vật thăng cấp kỹ năng và nâng kinh nghiệm từ các trận đánh thế này. Magic(Ma thuật) được chia thành bốn loại khác nhau, bao gồm White Magic, Black Magic, Summon Magic của Rydia và các loại kỹ năng tấn công, hỗ trợ đặc biệt của Edge được biết đến với cái tên Ninjutsu.

    Trong trận đánh bạn có quyền điều khiển đến 5 nhân vật, vì thế phân bố nhân vật và sắp xếp đội hình nhóm cũng là một việc quan trọng trong game. Bạn chỉ có thể nhập lệnh yêu cầu nhân vật thực hiện kỹ năng khi mà thanh ATB chạy đầy, vì thế bạn phải có tư duy tính toàn các lượt đánh để giảm thiểu tổn thất hay tăng hiệu quả kỹ năng của các nhân vật.

    Nhân vật sử dụng magic, chiếm 8 trên tổng số 12 nhân vật có thể điều khiển được (Kain, Edward, Yang và Cid không thể sử dụng magic), có được magic mới khi đạt được số kinh nghiệm được chỉ định hoặc trãi qua các sự kiện trong game; vì lý do này nên hệ thống kỹ năng của Final Fantasy IV được xem như đơn giản nhất so với đa số các game trong series. Giống như việc các nhân vật thăng cấp kỹ năng phép thuật trong Dungeons & Dragons (D & D), hoàn toàn khác đi so với phiên bản Final Fantasy gốc (Final Fantasy I), phần nào thì gameplay này cũng gần gũi hơn là phải mua và thăng cấp phép thuật trong các D&D.

    Không như phiên bản Final Fantasy đầu tiên, thực sự không cần nhiều thời gian để luyện kinh nghiệm/thăng cấp mới có thể qua vùng đất khác trong phiên bản này. Người chơi có thể qua vùng đất khác một cách đơn giản, miễn là không chạy trốn quá nhiều khỏi các trận đánh ngẫu nhiên.

    Nhân vật
    Nhân vật có thể điều khiển:
    * Edward Geraldine
    * Rosa Joanna Farrell
    * Fusoya
    * Cecil Harvey
    * Kain Highwind
    * Edward Chris von Muir
    * Palom
    * Cid Pollendina
    * Porom
    * Rydia
    * Tellah
    * Yang Fang Leiden

    Cốt Truyện
    [spoil]
    [​IMG]
    Nhân vật có thể điều khiển được của Final Fantasy IV, ngoại trừ Fusoya.

    Quốc gia hùng mạnh nhất, vương triều Baron, bắt đầu sử dụng đội không quân vô song của họ, Red Wings, và đội chiến binh Dark Knights để tấn công vào các quốc gia yên bình khác nhằm mục đích tìm bốn viên Crystals, mỗi viên tương ứng vơi một yếu tố sức mạnh khác nhau. Cecil Harvey, là một Dark Knight và là thủ lĩnh của Red Wings, bắt đầu nghi ngờ về hành động của nhà vua sau khi dùng vũ lực để cướp viên Water Crystal ở ngôi làng pháp thuật Mysidia. Trong lúc yêu cầu nhà vua trả lời thắc mắc, Cecil đã bị cắt chức và bị điều đi làm nhiệm vụ ở nơi khác cùng với bạn của anh là Kain Highwind một thành viên trong đội Dragoon (Kỵ sĩ rồng), nhiệm vụ của anh là phải đưa hàng hóa đến làng Mist. Trước khi thực hiện nhiệm vụ, Cecil nhận được tình cảm từ một White Mage là Rosa Joanna Farrell, người bạn này biết rằng tình cảm mà cô dành cho Cecil đã vượt quá giới hạn tình bạn, đồng hành còn có Cid Pollendina, kỹ sư AirShip của Baron và là người cha tinh thần của Cecil. Khi đến thị trấn Mist, Quả bom trong gói hàng mà anh vận chuyển đã phát nổ và tàn phá toàn bộ ngôi làng. Cecil và Kain tìm thấy một cô gái trẻ còn sống sót có tên là Rydia. Cecil quyết định đem Rydia theo cùng nhưng Kain thì không biết ở đâu. Lúc này, Cecil thực sự giận dữ về hành động của quốc vương Baron và của Red Wings, anh mới bắt đầu lập kế hoạch ngăn chặn bàn tay gian ác của họ. Trên hành trình trở về Baron, Cecil gặp lại Rosa đang lưu lạc cùng với Desert Fever; cùng đó là gặp gỡ lão phù thủy Tellah, hoàng tử của vương quốc Damcyan là Edward Chris von Muir, và một Monk (nhà sư) mãnh mẽ của xứ Fabul là Yang Fang Leiden. Cecil chạm trán với Kain, anh ta đang làm nhiệm vụ cướp tất cả những viên Crystal còn lại cho quốc vương Baron. Anh ta đi theo một người tên là Golbez,cuối cùng Kain không thể giết được Cecil. Trong cuộc chạm trám, Rosa bị Golbez bắt đi. Cả nhóm tìm hiểu được rằng Golbez đang xúi giục, điều khiển Kain và Baron đi chiếm lấy những viên Crystals. Sau khi con tàu bị tấn công bởi con quái vật biển Leviathan, Cecil bị mắc kẹt ở khu vực gần Mysidia, tại đây, anh bắt đầu hối hận vì những điều mà anh đã làm trước đây, anh quyết tâm trở thành một Paladin. tại đây Cecil gặp gỡ những mages tập sự là Palom và Porom, những người sẽ chỉ dẫn và giúp đỡ anh trong chuyến hành trình đến Mt. Ordeals. Họ tham gia vào nhóm của Tellah, người đã tìm ra được sức mạnh của Meteor, và sau trận đấu với quái vật của đất là Scarmiglione, Cecil đã thoát khỏi ám ảnh của quá khứ, vượt qua được quá khứ đen tối của mình để trở thành một Paladin. Tellah cũng học được pháp thuật Meteor mà trước đây ông không thể sử dụng thành thạo.

    [​IMG]
    Đoạn Intro của Final Fantasy IV.

    Sau khi Cecil trở thành Paladin, cả nhóm bắt đầu kế hoạch lật đổ vương triều Baron họ xuất phát và đi qua vùng Devil's Road. Tuy nhiên, Golbez đã điều nắm quyền điều khiển quân lính của Baron, và thậm chí là thay thế một vua mới là Cagnazzo, quỷ nước, kẻ mà Cecil và bạn bè phải tiêu diệt. Cid cũng thoát được khỏi chỗ bắt nhốt ông trong lúc này, cả nhóm bay ra khỏi nơi nguy hiểm bằng chiếc airship của Cid. Cecil gặp Kain đã không còn tĩnh táo, hắn ta buộc Cecil phải đi giành lại viên Crystal of Earth để đổi lấy mạng sống của Rosa. Sau khi Cecil và bạn bè giành lại được viên crystal từ tay của Dark Elf, Kain chỉ dẫn cả nhóm đến Tower of Zot, nơi mà Rosa đang bị Golbez giam giữ. Đối mặt trực tiếp với Golbez, Tellah nắm lấy thời cơ và tấn công hắn bằng Meteor, với mục đích là giết hắn và cũng tự nguy hiểm cho cả ông, nhưng không may mắn, Meteor không giết được Golbez, hắn ta cũng chạy trốn để vì bị thương. Có vẽ nhưng việc Golbez bị thương đã khiến cho Kain tỉnh táo trở lại và không còn bị hắn điều khiển nữa, anh nói rằng Golbez chưa có đủ tất cả những viên Crystals;Có 4 viên nữa; đó là 4 viên Dark Crystals, đang được chôn giấu dưới lòng đất của Dwarves, nhưng Golbez đã cướp được 2 viên rồi. Cả nhóm đến giải cứu cho Rosa, sau khi giết chết Barbariccia, quỷ của gió, họ mở được một con đường xuống lòng đất và tìm thấy được Dark Crystals.

    Cecil và nhóm bạn đuổi theo Golbez vào trong Dark World (thế giới bóng tối) và cố gắng giành lấy những viên Crystals trước khi Golbez ra tay. Tuy nhiên, họ lại thua Golbez trong trận chiến ở Dwarven Castle sau khi Rydia trở lại và gia nhập nhóm. Sau đó tại Tower of Babil, Yang and Cid đã anh dũng hy sinh. Nhờ có sự gia nhập của hoàng tử Ninja của xứ Eblan là Edge, nhóm bạn đã hạ gục Rubicante, nhưng nhóm của Cecil lại một lần nữa gặp tổn thất; Golbez lại một lần nữa chiếm lấy được viên Crystal, bằng cách điều khiển Kain khiến anh ta ăn cắp viên Crystal cuối cùng từ Cecil và chạy thoát. Golbez sau đó đã đi lên mặt trăng thứ hai. Để tìm ra bí ẩn về Golbez cũng như là mục đích đen tối của hắn, đồng thời hy vọng là chăn đứng được âm mưu đen tối này, Cecil đuổi theo Golbez lên mặt trăng thứ hai bằng chiếc Airship cổ "Lunar Whale" được giấu ở vịnh Mysidia.

    [​IMG]
    Trên mặt trăng.

    Trên mặt trăng, Cecil gặp gỡ FuSoYa, ông giới thiệu ông là người thuộc bộ tộc Lunarian, trước kia họ sống trên một hành tinh mà sau đó đã bị nổ tung và tạo thành một vành đai thiên thạch. Ba của Cecil là KluYa, có nhiêm vụ bảo vệ những viên Crystal, vì chúng có liên hệ tới những viên Crystal trên mặt trăng, chúng lưu giữ những tri thức của người Lunarian và chúng cũng chứa những bí quyết để tiếp cận các công nghệ hiện đại như chế tạo Airship. Tuy nhiên, một người trong bộ tộc Lunarian là Zemus, có âm mưu tiêu diệt hết những người trên hành tinh (hành tinh của Cecil) để lấy đó làm nơi dành cho người Lunarian sinh sống. Điều đó đồng nghĩa với việc cả Golbez và Kain đều là con rối trong tay của Zemus, âm mưu của hắn là dùng Crystals tái sinh người máy không lồ được gọi là Giant of Babil để san bằng mọi thứ trên hành tinh.

    Được hỗ tống bởi FuSoYa, người có vô hiệu hóa được ảnh hưởng từ trường của Giant of Babil, Cecil trở về mặt đất và biết được rằng Giant of Babill đã hồi sinh. Toàn thể mọi người bao gồm cả những thành viên trước đây trong nhóm như Edward, Cid, Yang và cặp song sinh Palom - Porom đang tham gia vào cuộc chiến. Sau khi sử dụng Airship của Cid để xuyên thủng lớp ngoài của tên khổng lồ, nhóm bạn hạ được 4 con quỷ trong lũ Archfiends và phá hủy CPU (bộ xử lý trung tâm) của tên khổng lồ. Trong khi vô hiệu hóa tên khổng lồ, cả nhóm phải đối đầu với Golbez, đang cố gắng tấn công cả bọn. FuSoYa sau cùng cũng vô hiệu hóa được sự điều khiển của Zemus lên Golbez và Kain. Sau đó, Cecil phát hiện ra thực sự Golbez chính là anh trai của mình. Golbez và FuSoYa lại lên mặt trăng để tiêu diệt Zemus, còn nhóm của Cecil thì theo sau. Sau trận chiến ở trung tâm mặt trăng, Cecil chứng kiến Golbez và FuSoYa hạ gục Zemus, nhưng bất ngờ cái chết của Zemus lại giải phóng cho một con quái vật mạnh hơn nhiều lần, đó là Zeromus,, hiện thân của lòng thù hận của Zemus. Thế là Golbez và FuSoYa bị hắn hạ gục dễ dàng, rồi tấn công luôn cả nhóm của Cecil. Cecil lãnh đạo mọi người, bao gồm cả viên Crystal của Golbez giao phó, anh đã hạ gục Zeromus

    Sau khi hạ gục Zeromus, FuSoYa trở về với giấc ngủ của mọi người trong tộc. Golbez cảm thấy anh ta không thể quay về mặt đất nữa sau những gì mà anh ta đã làm, cũng vì anh ta có gì đó là của người Lunarian, cho nên anh ta đã ở lại mặt trăng. Trước đó, Cecil đã tha thứ cho anh tất cả và gọi Golbez bằng anh. Sau đó, mặt trăng bay vào không gian, những nhân vật của chúng ta quay về nhà, xây dựng lại những gì đã bị tàn phá. Kain đi đến Mount Ordeals để rèn luyện bản thân, thề rằng sẽ không trở về Baron cho đến khi anh chứng minh được mình. Những nhân vật quan trọng khác trong game (ngoại trừ Kain) đều góp mặt trong đám cưới của Cecil và Rosa, Cũng như Cecil trở thành vua của xứ Baron.

    [​IMG]
    Hình ảnh trong CG của Final Fantasy IV bao gồm những nhân vật có thể điều khiển không bao gồm Cid, Tellah và FuSoYa.

    [/spoil]

    Phát triển

    [​IMG]

    Final Fantasy IV được phát hành trên nhiều phiên bản khác nhau cũng như trên nhiều hệ máy khác nhau. Tất cả đều có chung một cốt truyện và khắc họa bởi cùng một hệ thống nhân vật. Đa số có chung một hình tượng đồ hoa, âm thanh, nhạc, và engine để làm game (phiên bản trên DS là một ngoại lệ đặc biệt). Dù sao đi nữa, thì các phím điều khiển cũng là khác nhau dựa vào đặc tính của mỗi phiên bản trên các nên máy khác nhau.

    Bởi sự khác biệt rõ ràng giữa phiên bản dành cho hệ máy SNES ở Bắc Mỹ của game và phiên bản gốc được phát hành tại Nhật, cho nên vào những năm cuối thập niên 1990, Nhóm dịch giả J2e đã cho ra đời bản dịch tiếng Anh của trò chơi được dịch từ phiên bản gốc tiếng Nhật.

    Easytype

    Phiên bản Final Fantasy IV gốc được chỉnh sửa lại để trở thành bản Easytype, cụ thể là phép thuật và các kỹ năng được cắt gọn hay thay đổi lại, giá của các đồ vật, item, trang bị trong shop cũng rẽ hơn khiến cho độ khó của trò chơi giảm xuống. Có nguồn tin cho rằng phiên bản tiếng Anh được phát hành tại Bắc Mỹ là phát triển từ phiên bản Easytype này, nhưng theo thông tin chính xác thì dự án Easytype được bắt đầu sau khi đã phát hành phiên bản ở thì trường Bắc Mỹ chứ không phải là ngược lại như mọi người hiện nay đang nghĩ.

    Final Fantasy II (Bắc Mỹ)

    [​IMG]

    Final Fantasy IV Easytype có độ khó tương tự như phiên bản được phát hành tại Bắc Mỹ, nhưng game lại mất chất lượng khi vượt qua bộ phận kiểm duyệt tại đây, cũng như bản dịch quá tồi. Những hình ảnh bạo lực hay liên quan đến các vấn đề chính trị, tôn giáo trong game đều bị lược bớt hoặc loại bỏ, ngay cả những cái tên đôi khi của được chỉnh sửa so với bản gốc.

    PlayStation

    Phiên bản trên hệ máy PlayStation hầu như là giống hệt phiển bản gốc Final Fantasy IV. Một vài thay đổi trong phiên bản Final Fantasy IV Easytype vẫn được giữ lại, nhưng rất ít và hiếm đến nỗi một game thủ bình thường có thể dễ dàng chơi hết game mà không nhận ra được những thay đổi đó. Sư thay đổi đáng chú ý nhất ở phiên bản PlayStation là có một đoạn FMV (Full Motion Video) để mở đầu game, thêm nữa là khả năng "chạy" trong dungeon hoặc các thị trấn nếu bạn nhấn Cancel trong khi di chuyển, và cuối cùng là khả năng tạo một điểm save tạm trên world map. File save này sẽ được lưu lại trong bộ nhớ RAM của PlayStation cho đến khi nó bị save đè lên bởi một file khác, hoặc cho đến khi tắt máy, cúp điện.

    Phiên bản ở thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu của Final Fantasy IV trên hệ máy PlayStation có điểm đặc biệt là đã dịch lại hoàn toàn khác với các bản trên SNES hay bản gốc tiếng Nhật. Tuy vậy, có vài câu ví dụ như "You spoony bard!", vẫn được giữ lại, bởi vì chúng rất được các game thủ ưa thích.

    WonderSwan Color

    Phiên bản cho hệ máy WonderSwan Color của Final Fantasy IV thiếu đi những đoạn phim FMV của phiên bản trên hệ máy PlayStation, cũng như là bị giảm đi độ phân giải màn hình và chất lượng âm thanh, soundtrack trong game cũng giảm rõ rệt để đáp ứng được hệ thống xử lý của phần cứng.

    Tuy nhiên, hình ảnh của nhân vật cũng được cải tiến, song song với đó là nâng cao chất lượng phông nền (back ground) cũng tạo ra khác biệt. Hình ảnh nhân vật của những phiên bản cũ cũng được thay đổi, với chân dung nhỏ hơn. Tương tự, hình ảnh những con boss cũng được thay bằng hình ảnh của boss trong phiên bản tiếng Nhật Easytype.

    Game cũng có độ khó khác với các phiên bản xưa, bao gồm phiên bản gốc tếng Nhật, phiển bản trên SNES hay Play Station cũng như là EasyType.

    Game Boy Advance

    [​IMG]

    Phiên bản trên Game Boy Advance được phát hành tại Bắc Mỹ được phát hành vào ngày 12 tháng 12 năm 2005, trong khi bản tiếng Nhật được phát hành vào ngày 15 tháng 12 năm 2005. Đặc biệt còn có quà tặng đị kèm phiên bản tiếng nhất là miếng bảo vệ Game Boy Micro có in hình artwork của Cecil và Kain do Yoshitaka Amano vẽ. Phần lớn game dựa trên phiên bản trên hệ máy WonderSwan Color. Một số thay đổi bao gồm thêm vào chân dung của nhân vật trên khung đối thoại, Khả năng thay đổi thành viên trong nhóm, tăng độ khó và các dungeon mới cùng với những item, vũ khí mới có cả những con boss mới. Lời thoại cũng được lại với chất lượng tốt hơn. Khả năng quicksave, cho phép người choi có thể save vị trí hiện tại (không cần biết là ở đâu) vào một file mà hệ thống sẽ tự xóa đi khi bạn load file đó ra.

    Tuy nhiên, Nhưng cũng có một vài lỗi nhỏ xuất hiện trong game, đặc biệt là trong trận đánh, có thể đó là hậu quả của việc chuyển hệ giữa hai hệ máy có sẵn cho nên game đã không tận dụng hết tối đa khả năng phần cứng của GBA mang lại. Ví dụ như việc lượt đánh của một nhân vật trong nhóm có thể bị bỏ qua và thay vào đó là lượt đánh của nhân vật khác (Lấy vị dụ trường hợp của Edge, anh ta có thể dùng 1 lượt để đánh vào đối thủ, nhưng sau đó anh ta có thể tung thêm 1 hoặc thậm chí là 2 lượt mà không cần đợi thanh ATB đầy).Cũng có vài trục trặc trong khi bạn sử dụng Airship (lỗi khi bạn điều khiển Airship rẽ trái hoặc phải sẽ nhiều hơn là lái lên và xuống) và trong khi di chuyển con trỏ trong menu (trong và ngoài trận đấu). Điều đó làm giảm hiểu quả khi lựa chọn phép thuật trong trận đánh mà bạn sử dụng chế độ Active Mode và tốc độ trận đấu nhanh. Hơn nữa, một số bản quyền về soundtrack (the Tower of Babil and Sylph Cave/Summoned Monster Cave themes mỗi bản đều có phần khẳng định bản quyền trong đó). Sau cùng, sẽ lag một chút khi bạn vào các trận đánh boss.

    Hiện tại, phiên bản Final Fantasy IV Advance cũng được giới chuyên môn đánh giá cáo; tuy nhiên, tại Nhật Bản, phiên bản thứ 2 của game được tung ra để vá lỗi cho phiên bản cũ. Phiên bản Eu phát hành dựa trên bản vá lỗi này, cho nên đây là phiên bản tiếng Anh duy nhất.

    Nintendo DS

    [​IMG]
    Logo bản NDS

    Final Fantasy IV được phát hành trên hệ máy Nintendo DS là một phần của chiến dịch Final Fantasy 20th Anniversary. Game được phát triển bởi Matrix Software, với đội ngũ đã từng làm nên phiên bản Final Fantasy III remake, và được giám sát bởi những thành viên trong nhóm phát triển phiên bản gốc: Takashi Tokita giám đốc điều hành, Tomoya Asano trong vài trò sản xuất, Hiroyuki Itō trong vài trò thiết kế battle. Animator Yoshinori Kanada đảm nhận phận kịch bản game và các đoạn cắt cảnh. Game được phát hành tại Bắc Mỹ vào ngày 22 tháng 7 năm 2008.

    Theo như tổng giám đốc điều hành Takashi Tokita (Người phụ trách phần kịch bản trong bản gốc), 3/4 kịch bản được lấy từ phiên bản trên hệ Super Famicom gốc, nhưng một vài điểm còn thiếu sẽ được bổ sung trong bản remake này, trong khi có một số sự kiến mới sẽ được thêm vào. Người chơi có thể sử dụng chứa năng stylus của máy Nintendo DS để di chuyển giống như phiển bản Final Fantasy III remake, hơn nữa là vài chức năng trong minigame sẽ cần đến chức năng stylus. Thêm vào đó, vài chức năng sẽ thêm vào khi chơi lại game sau lần walkthrough đầu tiên, nó tương tự như New Game Plus và Quicksave, chực năng có thể lưu lại tại vị trí hiện tại của bạn trong game (không cần biết bạn đang đứng ở đâu) vào một file mà hệ thống sẽ tự động xóa khi bạn load file đó để vào game.

    Vào tháng 6 năm 2007, Square Enix đã tổ chức một buổi hòa nhạc mang tên Final Fantasy IV's "Theme of Love" bao gồm các bản nhạc được ngài Nobuo Uematsu remix lại. Những công nghệ lồng tiếng trong các đoạn phim của game cũng được sử dụng. Một vài sự thay đổi trong phiên bản Nintendo DS bao gồm sự ra mắt của kỹ năng mới được gọi là Augments, tăng độ khó trong các trận đánh đối với những loại quái vật mới, thay đổi về hệ thống trang bị, thú triệu hồi Whyt để thực hiện các động tác trên màn hình cảm ứng của DS, và như đã kể ở trên là chức năng New Game Plus.

    Mobile phones
    Final Fantasy IV được chuyển hệ sang phiên bản trên mobile phones tiếng Nhật vào ngày 5 tháng 10 năm 2009. Game sử dụng toàn bộ đồ họa nhân vật mới kể cả trong lẫn ngoài trận đánh với một số hình ảnh lấy từ The After Years. Cũng như The After Years phát triển trên engine mở rộng của hãng, phiên bản này cũng chịu không ít ảnh hưởng từ Final Fantasy IV Advance. Phiên bản mới này còn giới thiệu chức năng đổi thành viên trong nhóm và có vài chức năng mới như là "EX Dungeon", một phần làm lại của Lunar Ruins.

    Ngoài lề
    * Tên của những con quỷ trong nhóm Archfiends (Scarmiglione, Cagnazzo, Barbariccia, và Rubicante) đều được lấy ý tưởng từ 4 con quỷ được đề cập đến ở Canto 21 của trường ca Dante Alighieri's Inferno. Một con boss khác trong game, Calcabrina, cũng được đặt tên từ trường ca này.
    * Cả Final Fantasy II và Final Fantasy IV đều có một ngôi là pháp thuật được gọi là Mysidia.
    * Phiên bản Game Boy Advance có hình ảnh của Zeromus trong Easytype,nó là con boss cuối cùng trong dungeon Lunar Ruins. Nó có tên là "Zeromus EG", Có thể hiểu EG ở đây ám chỉ "Easy Game" hoặc "iiji" (có nghĩa là Easy trong tiếng phát âm của người Nhật).
    * Final Fantasy IV là game đầu tiên trong loạt Final Fantasy sử dụng Save Points và sử dụng hệ thống ATB (Active Time Battle).
    * Trong phiên bản dành cho hệ máy DS, có một lỗi rất nghiêm trọng. Sau khi xem xong đoạn phim cuối game, thỉnh thoảng sẽ bị treo máy và đứng luôn (freeze) ở trong đoạn FMV đó hậu quả là game thủ sẽ không thể hoàn tất game để kích hoạt New Game +.
    * Mặc dù phần tiếp theo là Final Fantasy IV: The After Years, trông bề ngoài thì rất giống các phiên bản 2D cổ điển, nhưng thực sự nó có họ hàng gần với phiên bản trên DS hơn.
    * Là một trong nhưng game nằm trong series Final Fantasy được viết thành tiểu thuyết tại Nhật.
    * Bản Boss Theme của Final Fantasy IV được remix lại và sử dụng làm bản Culex Boss Theme trong Super Mario RPG: Legend of the Seven Stars. Thực tế, bản thân Culex được xây dựng trên mô típ của các con boss trong dòng game Final Fantasy.
    * Chưa đủ kỳ lạ, Final Fantasy IV còn là game đầu tiên trong series có số thành viên tối đa trong nhóm không phải là 4.[/spoil]
     
  3. king_dragontb

    king_dragontb ✯Final Fantasy Collector✯ Moderator Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    3/1/06
    Bài viết:
    4,167
    Nơi ở:
    Grand Line
    [​IMG]

    Tên game: Final Fantasy II (ファイナルファンタジII ーFainaru Fantajī II)

    [​IMG]

    Biên dịch: king_dragontb
    Chỉnh sửa: king_dragontb
    Nguồn:
    http://finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_II

    [SPOIL]Final Fantasy II là phiên bản thứ 2 của series Final Fantasy. Nó nổi tiếng bởi là game RPG console đầu tiên được đầu tư cốt truyện chuyên sâu và cũng là phần đầu tiên trong series giới thiệu đến người chơi những nhân tố sau này trở thành đặc trưng của thương hiệu Final Fantasy như Chocobo và nhân vật Cid. Nó còn đặc trưng cho việc thay thế hệ thống điểm kinh nghiệm cổ điển bằng hệ thống mới, tại đó những chỉ số của nhân vật tăng lên dựa vào việc họ cần gì và dùng nhiều như thế nào. Nói cách khác, nhân vật thường sử dụng magic sẽ có độ thành thạo tăng nhanh hơn nhân vật chuyên về tấn công vật lý.

    Mặc dù không được áp dụng cho những phần sau này của series nhưng hệ thống này đã được chỉnh sửa và dùng cho series Saga cũng do Square sản xuất. Trò chơi này thực chất được Akitoshi Kawazu thiết kế (người sau này thiết kế cho series SaGa), nhiều hơn là Hironobu Sakaguchi, người sáng lập ra dòng game. Do tính phổ biến của series ở Mỹ trong những năm 90, Final Fantasy là game đầu tiên được fan dịch, trong trường hợp này là do NeoDemiforce. Final Fantasy II ban đầu được Nobuo Uematsu soạn nhạc, đây là lần thứ 17 ông tham gia viets nhạc cho video game. Sau này trong các bản làm lại cho WonderSwan Color, PlayStaytion, Gameboy Advance và PlayStaytion Portable, người đảm nhiệm phần nhạc là Tsuyoshi Sekito.

    Gameplay

    Final Fantasy II là phần duy nhất trong series Final Fantasy không sử dụng hệ thống lên level bằng điểm kinh nghiệm. Thay vì nhận điểm sau mỗi trận đấu, mỗi nhân vật sẽ phát triển kĩ năng dựa trên việc họ làm gì trong trận đấu đó. Ví dụ, nhân vật hay sử dụng một loại vũ khí sẽ trở nên thông thạo với loại đó hơn, và sức mạnh vật lí cũng tăng lên.

    [​IMG]
    Status nhân vật trong bản GBA

    Nhân vật thường xuyên thi triển một phép thuật cố định sẽ học được cách dùng những cấp cao hơn của loại phép đó, đồng thời chỉ số phép thuật của người đó tăng lên. HP và MP, tăng lên phụ thuộc vào nhu cầu: nhân vật nào sau khi kết thúc trận đấu mà chỉ còn một lượng nhỏ sức khỏe sẽ tăng số HP tối đa lên, còn nhân vật sử dụng hầu hết MP trong trận đấu sẽ tăng số MP tối đa.

    Vẫn còn tồn tại một số lỗi liên quan đến hệ thống mới này còn tồn tại trong game. Lỗi lớn nhất nằm ở khả năng hủy bỏ lệnh đã ra trước đó nhưng vẫn nhận được điểm tăng như là đã thi triển hành động. Hệ thống battle theo lượt của game cho phép người chơi ra lệnh cho cả 4 nhân vật trong nhóm một lúc. Bất cứ lúc nào trước khi lệnh cho nhân vật cuối cùng được đưa ra, bạn đều có thể nhấn nút quay trở về nhân vật trước để ra một lệnh khác.

    [​IMG]
    Menu bản PSP

    Vì có rất nhiều chỉ số, như khả năng thành thạo vũ khí và magic, được tính dựa trên số lần những lệnh liên quan được sử dụng, nên chỉ cần một chút kiên nhẫn là đã có thể nhanh chóng đạt được độ thành thạo chỉ trong một lượt battle. Một vấn đề tương tự được biểu lộ trong cách mà HP tăng lên, cho phép nhân vật tấn công chính đồng đội của mình để giúp tăng số HP tối đa của họ lên. Những điều này vẫn được lặp lại trong bản chuyển đổi sang WonderSwan Color và PlayStation. Bản dành cho Gameboy Advance đã sửa được lỗi trong việc hủy bỏ lệnh nhưng mẹo tăng HP thì vẫn còn. Một vài thay đổi khác cũng được làm trong ban GBA, bao gồm lượng HP tối đa tăng lên dần ngoài những cách trên để làm giảm độ khó của game.

    Nhóm chiến đấu gồm 4 người, 3 trong số đó hiện diện trong suốt trò chơi, vị trí thứ tư thay đổi lần lượt qua khá nhiều nhân vật lần lượt được xuất hiện. Final Fantasy II là game đầu tiên trong series cho phép một nhân vật được đặt ở hàng sau trong trận chiến. Nhân vật này không được phép dùng hầu hết những đòn tấn công vật lí nhưng có thể sát thương bằng cung tên hoặc magic. Tương tự, kẻ thù cũng có thể sắp xếp 4 hàng đôi (vì tối đa chỉ có 8 quái vật xuất hiện một lúc). Chỉ có hai hàng gần nhóm của người chơi nhất mới có thể ra đòn vật lí, sau khi đánh bại 2 hàng đó, người chơi mới có thể tấn công vào hai hàng sau.
    Trong suốt trò chơi, khi hội thoại với các NPC, người chơi sẽ có khả năng “học được” nhưng từ hoặc câu đặc biệt, sau này sử dụng lại với NPC khác để tìm thêm thông tin hoặc mở được hành động mới. Một vài item đặc biệt cũng dùng với NPC để có công dụng tương tự.

    Nhân vật

    Final Fantasy II là game đầu tiên có một dàn nhân vật cụ thể với tên và tiểu sử rõ ràng. 3 nhân vật đầu không bao giờ có thể thay đổi, trong khi nhân vật thứ 4 thì thường xuyên.

    - Firion: Nhân vật chính, người được nhận nuôi vào gia đình Maria và Leon, bạn thời thơ ấu của Guy, anh luôn muốn tiêu diệt lại đế chế với hi vọng trả thù cho gia đình mình.
    - Maria: Bạn từ nhỏ với Firion và Guy, là nhân vật nữ chính. Cô lên đường du hành để tìm người anh trai Leon, người bị mất tích sau lần đế chế tấn công.
    - Guy: Bạn của Firion và Maria. Anh nói khá khó khăn nhưng lại có khả năng nói chuyện với động vật. Tuy nhiên khả năng độc nhất vô nhị này chỉ được dùng đúng 1 lần trong trò chơi.
    - Leon: Anh trai của Maria, Dark Knight mới của Palamecia. Anh bị mất tích trong lần Fynn bị tấn công, sau này trở thành tay sai đắc lực nhất cho hoàng đế.
    - Minwu: Là một White Mage và là cố vấn riêng của Hilda. Anh tham gia nhóm trong những chuyến phiêu lưu đầu tiên và theo học ma thuật.
    - Josef: Một thợ mỏ, người giúp cho quân kháng chiến tìm được Mythril, tham gia nhóm một thời gian ngắn nhưng đóng góp rất to lớn.
    - Gordon: Hoàng tử xứ Kashuan, rút lui khỏi chiến trường sau khi anh trai Scott hi sinh trong trận chiến Fynn. Luôn coi mình là kẻ ngu ngốc, anh muốn chứng tỏ mình xứng đáng thừa hưởng giang sơn nên đã tham gia hành trình cùng Firion và bạn bè chống lại đế chế.
    - Leila: Một cướp biển âm mưu đánh cướp nhóm, nhưng thủy thủ đoàn của cô quá yếu nên Firion, Maria và Guy dễ dàng đánh bại. Cô đã hoàn lương và quyết định chỉ tấn công đế chế.
    - Ricard Highwind: Kị sĩ cuối cùng của Deist. Bị mặc kẹt trong Leviethan một thời gian, anh rất háo hức được quay về để ngăn chặn đế chế với mục tiêu trả thù cho những đồng đội đã ngã xuống.
    - Scott: Hoàng tử vùng Kashuan, anh trai Gordon.

    Cốt truyện

    Câu chuyện kể về cuộc hành trình của 4 thanh niên tại vương quốc Fynn tên là Firion, Maria, Guy và Leon. Cha mẹ họ bị giết trong một lần quân đội Palamecia tấn công. Nhà vua của đế quốc này đã triệu hồi 4 quái vật từ địa ngục để âm mưu thôn tính thế giới. Chạy trốn khỏi những con quái vật của Hoàng đế, 4 người bị tấn công và bỏ mặc cho chết dần. Firion, Maria cùng Guy được công chúa Hilda, người đã xây dựng một căn cứ nổi dậy tại thành phố Altair gần đó, cứu sống. Hăng hái muốn chứng tỏ giá trị của mình với nghĩa quân, 3 người trẻ tuổi đã thực hiện rất nhiều nhiệm vụ chống lại Palamecia và tham gia nhiều liên minh không chỉ để đánh bại Hoàng đế mà còn để tìm ra người anh trai mất tích Leon của Maria.

    Sau khi Hilda nhờ Firion, Maria, Guy đến Fynn nói chuyện với hoàng tử Scott, họ lên đường và biết rằng Scott đang ở một nơi bí mật trong thành phố. Khi họ tìm được hoàng tử trong căn phòng bí mật ở quán bar thì anh đang trong những phút giây hấp hối nhưng anh vẫn kịp tiết lộ cho họ biết sự sụp đổ của Fynn thực chất là do Bá tước Borghen phản bội. Anh cũng nói cho nhóm biết về người em trai Gordon của mình, người có một sức mạnh rất lớn. Scott trao cho Firion chiếc nhẫn, nhờ anh đem về cho Hilda và nói với cô anh mãi mãi yêu cô. Nhóm quay trở về Altair, Firion đưa cho Hilda chiếc nhẫn. Cô nhận ra đây là nhẫn của Scott và muốn Firion giữ nó, nói rằng đây là nhẫn của một người đàn ông quả cảm. Hilda sau đó yêu cầu nhóm đến Salamand để tìm Mythril. Josef, một thành viên trong quân kháng chiến đã được cử đi tìm nhưng đến giờ vẫn bặt vô âm tín. Minwu cũng gia nhập nhóm trong nhiệm vụ này.
    Cả nhóm tìm được Josef nhưng ông từ chối tiết lộ bất cứ thông tin nào do đế chế Palamecian đã bắt cóc con gái Josef là Nelly. Borghen đe dọa sẽ giết cô nếu như ông giúp đỡ quân kháng chiến. Nhóm đi tới Thác nước Semitt nơi Nelly bị giam giữ và giải thoát cho cô. Sau khi đánh bại một binh sĩ hoàng gia, họ lấy được Mythril và quay về Altair.

    Tại đây thợ rèn Tobul đã tạo ra những vũ khí Mythril cho quân kháng chiến, nhóm nhân vật chính được chuyển tới Bafsk. Đế quốc Palamecian bắt dân chúng phải tham gia xây dựng một chiếc airship khổng lồ mang tên Dreadnought. Việc chế tạo đặt dưới sự giám sát của một nhân vật được biết dưới cái tên Dark Knight nhưng người này đã bị gọi về khi đế chế bị mất Mythril, thay vị trí đó là Borghen. Việc này tạo cho nghĩa quân cơ hội tuyệt vời để phá hủy Dreadnought trước khi nó hoàn thành. Nhưng trước khi nhóm kịp tiếp cận với chiếc airship từ Bafsk Sewers thì Dark Knight, thực chất chưa bao giờ rời khỏi Bafsk, xuất hiện và đoạt lấy Dreadnought. Tàu Dreadnought sau đó tấn công các thành phố Poft, Paloom, Gatrea và Altair nhưng may mắn là căn cứ bí mật không hề hấn gì. Một kế hoạch sử dụng Sunfire ở Pháo đài Kasuhan được đề ra, nhưng để vào đó họ cần có Goddess Bell hoặc tiếng nói của một người Kashuan. Josef giúp cho nhóm vào một số hang động tuyết và tại đó họ tìm được chiếc chuông cần thiết. Trên đường ra, nhóm bị Borghen tấn công, dù bị đánh bại nhưng hắn vẫn kịp đẩy 1 tảng đá để đè chết mọi người. Josef đã dùng sức ngăn tảng đá lại cho cả nhóm chạy thoát nhưng ông đã hi sinh.

    Mặc dù rất đau buồn nhưng vì muốn trả thù cho Josef, nhóm lại lên đường tới vương quốc hoang tàn Kashuan để tìm Sunfire. Họ dùng Goddess Bell để vào trong pháo đài, tại đây họ gặp Gordon, người giúp họ tìm được Ngọn đuốc Egil (Egil’s Torch), thứ duy nhất có thể dùng để mang Sunfire. Nhóm đánh bại một Red Soul để lấy ngọn đuốc và tiếp nhận Sunfire. Khi trở ra, họ chứng kiến cảnh airship của Cid bị tàu Dreadnought bắt đi sau đó dừng chân ở phía nam để tiếp nhiên liệu. Cả nhóm tới đó, giải thoát cho Cid (và cả Hilda vì cô đang ở trên tàu của Cid). Sau đó họ ném Sunfire vào buồng máy trên tàu Dreadnought do Cid chỉ đường để phá hủy nó một lần và mãi mãi.

    Nhóm chiến thắng trở về Altair nhưng nhận được hung tin là nhà vua sắp qua đời. Với chút sức lực còn lại, ngài đã lập ra một cuộc tấn công gồm 3 mũi tiến vào đế chế đẻ giành lại Fynn. Theo kế hoạch, Minwu sẽ tiến về Mysidia để đoạt lấy Ultima, một bộ sách ma thuật tối thượng; Gordon chỉ huy quân nổi dậy tấn công trực tiếp vào Fynn; còn nhóm Firion đi tới đảo quốc Deist tìm sự trợ giúp của các Kị sĩ rồng. Nhờ sự trợ giúp của Leila, thuyền trưởng một tàu cướp biển, nhóm tới được Deist nhưng ở đó chỉ còn một con rồng duy nhất còn lại, nhưng nó cũng đang hấp hối do bị đế quốc đầu độc. Nó giao cho nhóm trứng rồng cuối cùng, nhờ họ đem tới ngâm trong dòng nước nóng ở đáy hang Deist nhắm giúp quả trứng có thể nở và tăng tốc quá trình sinh trưởng.

    Mọi người trắng tay quay trở về Altair. Họ bất ngờ phát hiện ra rằng Hilda mà họ cứu trên Dreadnought là giả mạo, đó là Nữ hoàng Lamia đóng vai. Họ cũng được biết Hilda đang bị đem ra làm giải thưởng tại Đấu trường Palamecia. Nhóm cùng với Gordon lập tức lên đường đến đấu trường, đánh bại Behemoth để nhận lại Hilda. Nhưng Hoàng đế, người đang quan sát trực tiếp trận đấu đã nhận ra và ném nhóm vào một hầm ngục. Họ được Paul, một đạo chích cứu thoát. Hilda cùng Gordon trốn thoát trong khi những người còn lại đánh lạc hướng bọn lính canh.

    Một cuộc tấn công vào Lâu đài Fynn được chuẩn bị, do Firion, Maria, Guy, Leila chỉ huy. Viên tướng giữ thành - Gottos bị đánh bại, nghĩa quân giành được chiến thắng quan trọng. Nhưng lúc này Minwu và bộ sách Ultima đã mất tích nên Gordon đã nhờ nhóm đi tìm Minwu ở Tháp Mysidian. Sau khi nhận được Crystal Rod, họ đi tới ngọn tháp nhưng lại bị quái Leviathan nuốt chửng. Bị đắm tàu và thaatslacj Leila, nhóm đành phải tự tìm đường từ trong bụng Leviathan lên đến miệng nó. Tại đây họ gặp Kị sĩ rồng Ricard Highwind, đánh bại một con Roundworm, lấy lại được tàu. Rồi họ tiếp tục đi tới Tháp, đánh bại Fire Gigas, Ice Gigas và Thunder Gigas, tìm thấy Minwu trong Căn phòng phong ấn lúc này đang tuyệt vọng không tìm được cách phá hủy nó để tìm Ultima. Trong nỗ lực cuối cùng, Minwu đã thành công nhưng cái giá phải trả là quá đắt - cái chết của chính bản thân anh.

    Nhóm lấy Ultima rồi trở lại Fynn nhưng có gì đó không ổn. Thành phố Altair, Gatrea, Paloom và Poft bị một lực lượng bí ẩn mang tên Cyclone phá hủy, thậm chí cả thế giới có nguy cơ bị san phẳng nếu cả nhóm không tìm được cách ngăn chặn. Tuy nhiên, Gordon có ý định nhờ con rồng cuối cùng giúp đỡ tìm Cyclone.

    Cuối cùng nhóm đánh bại được Hoàng đế ở Cyclone. Sau đó Leon, người được mệnh danh Dark Knight và cánh tay phải của Hoàng đế đã quyết định tự phong cho mình làm vị vua mới. Firion cùng đồng đội tới Palamecia để ngăn hắn lại nhưng khi nhóm đối mặt với Leon thì Hoàng đế quay trở lại từ Địa ngục, mạnh hơn bao giờ hết với mục đích giánh lại đế chế của hắn. Ricard Highwind ở lại Lâu đài Palamecia chiến đầu với Hoàng đế để nhóm cùng Leon trốn thoát nhưng Ricard bị giết gần như tức khắc. Sau cái chết của Kị sĩ rồng cuối cùng, Hoàng đế Bóng đêm cho xây dựng Lâu đài Pandaemonium, thành trì vững chãi cho Chúa tể Địa ngục để hắn có thể tạo ra một đế chế mới. Quay trở về Deist và nhận được Excalibur, thanh gươm báu của các Kị sĩ, nhóm băng qua đường hầm Jade, tiến vào Pandaemonium từ dưới lòng đất. Trong lâu đài, nhóm đã đánh bại rất nhiều tay sai cực mạnh của tên Hoàng đế, có cả Tướng quân Borghen đầu thai.

    Một trận chiến ác liệt do Hoàng đế tiến hành để đập tan hi vọng cuối cùng của mọi nỗ lực chống lại hắn. Mặc dù rất mạnh, có khả năng gọi được cả thiên thạch nhưng Hoàng đế vẫn bị đánh bại và bị đày xuống địa ngục. Firion cùng mọi người trở về Lâu đài Fynn, nơi Hilda, Gordon, Nelly, Leila, Paul đang chờ để chúc mừng chiến thắng của họ. Kết thúc mọi cuộc chiến, một cuộc sống mới đang chờ đón tất cả. Tuy nhiên, Leon hoài nghi về chính tương lai của mình sau khi đã có quá nhiều sự việc xảy ra giữa anh và mọi người. Dù Maria ngăn cản, Firion vẫn để cho Leon ra đi nhưng lại nhắn nhủ rằng luôn có một chỗ dành cho anh ở Fynn, nơi anh thuộc về.

    Soul of Rebirth

    Trong phiên bản dành cho máy Gameboy Advance và PlayStation Portable có một câu chuyện mới mang tên Soul of Rebirth kể về bốn thành viên đã chết khi bảo vệ Firion cùng đồng đội để giúp họ đánh bại Hoàng đế.

    Minwu tỉnh dậy trong một hang động bí ẩn. Rồi anh tìm thấy Scott, hoàng tử Kashuan, người đã chết ở đầu game. Sau khi đánh bại một vài tên lính, 2 người gặp Josef đang phải đương đầu với Borghen trong hình thù zombie gớm ghiếc. Cả 3 đánh bại được Borghen và bắt đầu tìm hiểu xem họ đang ở đâu. Trên đường đi họ gặp Ricard đang chiến đấu với Roundworm và hỗ trợ để diệt nó. Nhóm tìm được đường ra rồi phát hiện ra rằng mình đang ở thế giới bên kia. Thành phố Machanon được xây dựng làm nơi trú ngụ an toàn cho các linh hồn bị kẹt trong không gian kì lạ này. Tại đây, nhóm tìm thấy Cid, Tobul và những người lính kháng chiến khác đang giúp xây dựng thành phố, họ động viên nhóm tìm hiểu về 2 cánh cổng bí ẩn mới xuất hiện ở Machanon.

    Sau khi trải qua những trận chiến khó khăn, Minwu và mọi người vào được cánh cổng thứ nhất dẫn đến Căn phòng phong ấn, nơi Minwu an nghỉ. Một lần nữa Minwu lại phải phá phong ấn nhưng lần này anh đủ mạnh để làm mà không gây ra chấn thương chết người nào. Nhóm đi vào căn phòng để lấy Ultima nhưng lại chạm trán với kẻ trấn giữ sách phép: Ultima Weapon. Sau một trận chiến dữ dội, nhóm đánh bại được con quái vật và chiếm giữ Ultima.

    Còn lai một cánh cổng dẫn đến một cung điện bí ấn. Giống như Pandaemonium trước đó, nới đây cũng được canh giữ bởi những con quái dữ tợn và chứa một vài trang bị mạnh nhất trong game. Đặc biệt, nhóm Minwu đã tìm ra bốn vũ khí không đâu có dành cho mỗi người: Stardust Rod (Minwu), Wild Rose (Scott), Bracers (Josef) và Wyvern Lance (Ricard).

    Cuối cùng nhóm được gặp Hoàng đế Ánh sáng, người muốn được tha thứ cho những hành động sai trái của nửa Bóng tối của mình. Hoàng đế nói rằng ông đã bị cắt làm hai nửa do ngày trước bị đánh bại, nhóm Firion đã hạ được nửa bóng tối trong lâu đài Pandaemonium. Ông cũng giải thích rằng bây giờ họ đang ở Arubboth, đường tới Thiên đàng, họ sẽ được an nghỉ trong yên bình. Nhóm tưởng như đã tin những lời đó nhưng tiềm thức của những người bạn đang còn sống cùng gia đình họ xuất hiện, bảo họ rằng không được tin lời Hoàng đế Ánh sáng vì bản chất của hắn chẳng khác gì Hoàng đế Bóng đêm. Cả nhóm lấy lại được tinh thần chiến đấu và hạ gục tên vua. Sau trận chiến, 4 người anh hùng quay trở về Lâu đài Fynn (hay ít ra là linh hồn họ), nơi họ được chứng kiến những sự kiện xảy ra ở cuối game. Điều này giải thích vì sao Firion lại nhìn thấy ảo ảnh về 4 người trong game gốc. Câu chuyện kết thúc bằng việc Minwu, Scott, Josef, Ricard tan biến dần, có lẽ lần này họ đã tới được Thiên đàng.

    Âm nhạc

    Final Fantasy II gốc do Nobuo Uematsu soạn nhạc và là game thứ 17 của ông. Các bản làm lại trên WonderSwan Color, PlayStation, Gameboy Advance, phần âm nhạc được Tsuyoshi Sekito phụ trách, ông cũng là người sáng tác 2 bản nhạc boss battle mới trong những phần này. Còn có một bộ nhạc nền dành cho bản NES chưa bao giờ được phát hành không rõ lí do. Một vài bài không phải lấy nguyên gốc trong game mà lấy từ bản ba lê Swan Lake (Hồ thiên nga) của Tchaikovsky.

    Quá trình phát triển

    [​IMG]
    Logo bản NES

    Final Fantasy II gốc phát hành cho máy Nintendo Family Computer ở Nhật năm 1988. Có tin đồn rằng Nintendo Mỹ và Square Soft (chi nhánh Bắc Mỹ của Square) sẽ chuyển thể game sang tiếng Anh cho người chơi tại Mỹ như người tiền nhiệm của nó từng làm năm 1990. Sự thật là đã có một dự án như vạy được thông báo và một bản thử nghiệm trên băng cartridge được sản xuất vào năm 1991 với cái tên Final Fantasy: Dark Shadow Over Palakia, nhưng game này đã bị hủy bỏ để dồn sức cho Final Fantasy IV. Trò chơi đã không bao giờ được phát hành bên ngoài châu Á trong nguyên bản. Nhưng bản remake sau của game được dành cho máy Bandai WonderSwan Color, PlayStation (một phần trong bộ Final Fantasy Origins), Gameboy Advance (nằm trong Final Fantasy I & II: Dawn of Souls) và PlayStation Portable. Game lần đầu tiên được phát hành ở châu Âu khi nó trở thành bộ phận trong bộ sưu tập Origins.

    [​IMG]
    Battle trong bản tiếng Nhật

    Bản tiếng Anh không được phát hành

    Tiếp nối thành công của Final Fantasy năm 1990, Square Soft, chi nhánh Bắc Mỹ của Square bắt đầu làm việc cho dự án chuyển Final Fantasy II sang tiếng Anh. Người được giao nhiệm vụ là Kaoru Moriyama, người sau này dịch lời thoại cho Final Fantasy IV và Secret of Mana. Mặc dù đã có một bản beta được sản xuất và game được quảng cáo tại một số đại lí của Square Soft nhưng sự thành công của Super Nintendo Entertainment System, hệ máy kế nhiệm của NES đã khiến Square từ bỏ dự án bản địa hóa Final Fantasy II để chuyển sang Final Fantasy IV (bản này được phát hành dưới tên Final Fantasy II ở Bắc Mỹ để tránh gây nhầm lẫn cho gamer khi nhảy vọt về số thứ tự).

    Dù một bản thử nghiệm trên băng cartridge cho máy NES của Final Fantasy II đã được làm (với phần mở rộng là Dark Shadow Over Palakia), Moriyama vẫn phát biểu là muốn hoàn thành dự án thì vẫn còn rất lâu.

    Năm 2003, trò chơi cuối cùng cũng được phát hành bản tiếng Anh, là một phần trong Final Fantasy Origins. Nó được làm với đội ngũ dịch hoàn toàn mới dưới sự giám sát của Akira Kashiwagi.

    WonderSwan Color

    Bản remake đầu tiên của Final Fantasy II phát hành ngày 3 tháng 5 năm 2001. Thay đổi quan trọng nhất của game là nâng cấp về đồ họa với nhiều chi tiết trong hình ảnh hơn, tân trang lại battlefield và nền các dungeon, độ phân giải cao hơn.

    PlayStation

    Final Fantasy II lần đầu tiên cập bến Bắc Mỹ là trong bản Final Fantasy Origins, bao gồm cả Final Fantasy. Hình ảnh cùng gameplay gần như tương tự trên WSC, độ phân giải tăng không đáng kể. Vì máy PlayStation có khả năng xử lí cao hơn nên một vài chi tiết mới được thêm vào như 2 cảnh FMV, Bestiary, triển lãm ảnh của Yoshitaka Amano cùng bộ ảnh sưu tập item.

    [​IMG]
    Battle bản PSX

    Gameboy Advance

    Final Fantasy II một lần nữa đi kèm với Final Fantasy cho bản trên máy cầm tay GBA, trong bộ sưu tập Dawn of Souls. Trong phiên bản này, một vài điều chỉnh cho hệ thống chỉ số level đã được thực hiện, bao gồm bỏ khả năng hủy bỏ hành động cho phép người chơi nhận được điểm cộng cho những hành động được hủy bỏ có chủ đích, và loại bỏ việc giảm chỉ số. Như trong Final Fantasy, người chơi được cung cấp 3 slot lưu game và trò chơi có thể lưu ở bất cứ địa điểm nào trừ lúc battle. Thiết kế chân dung của Yoshitaka Amano được sử dụng trong các khung đối thoại.

    Bản Dawn of Souls của Final Fantasy II được thêm vào dungeon Soul of Rebirth, chỉ có thể chơi sau khi đánh bạn trùm cuối. Dungeon bao gồm khá nhiều khu vực và một thành phố. Những nhân vật có thể điều khiển là những người đã chết trong cốt truyện chính: Minwu, Josef, Ricard, Scott. Cần phải có một file save thêm kh chơi phần dungeon này.

    PlayStation Portable

    Final Fantasy II còn được chuyển sang PSP trong bộ Final Fantasy 20th Anniversary. Âm nhạc trong phần này tương tự như Final Fantasy Origins. Đồ họa được nâng lên độ phân giải cao hơn. Lời thoại giống như bản Gameboy Advance ngoại trừ những dungeon đặc biệt dành riêng cho bản đó, nhưng phim FMV, triển lãm ảnh trong Final Fantasy Origins được sử dụng lại cùng bộ 3 dungeon mới Arcane Labyrinth. Sau khi hoàn thành game, người chơi được đưa ngay đến phần Arcane Sanctuary, đối mặt với nhiều boss mới. Bản này còn có thêm lệnh “Defend” trong menu battle, lệnh này giúp nhân vật chặn đòn đánh của đối phương bằng khiên nếu được trang bị.

    Bản dành cho iPod/iPhone/iPad

    Square Enix đã công bố 2 phiên bản Final Fantasy đầu tiên cho iOS. Cả 2 game có đồ họa tương tự bản Anniversary cùng các dungeon đặc biệt. Gameplay của Final Fantasy gần như giữ nguyên từ bản PSP trong khi Final Fantasy II thêm nhân tố mới. 2 phiên bản phát hành ngày 25 tháng 2 năm 2010 cho iPhone và iPod Touch, tương thích với cả iPad

    [​IMG]
    Battle trong bản PSP

    Một số thông tin khác

    - Final Fantasy II không có nhiều điểm tương đồng với người tiền nhiệm. Nó được nhắc đến rất nhiều trong Final Fantasy IX. Eidolon Ramuh kể câu chuyện về cuộc chiến giữa các quốc gia, một người đàn ông hi sinh tính mạng của mình giúp cho nhóm nổi dậy trẻ tuổi được sống và tiếp tục chiến đầu với Đế chế. Câu chuyện này muốn nhắc tới Josef trong Final Fantasy II.
    - Final Fantasy II cùng với các bản III, IV, IV: The After Years, XI, Unlimired và The Spirits Within là những phần trong series được chuyển thành tiếu thuyết. Bản dành cho game này có tên Final Fantasy II Muma no Meikyū (ファイナルファンタジーII 夢魔の迷宮 - Final Fantasy II Nightmare’s Labyrinth). Tiểu thuyết này chỉ được phát hành ở Nhật, viết bởi Kenji Terada và độc quyền phát hành bởi Kadokawa Shoten.
    - Trong Final Fantasy IV: The After Years, Beelzebub, Astaroth, King Behemoth và Iron Giant là các vệ sĩ cho viên crystal True Moon.
    - Đây là game đầu tiên không dùng hệ thống lên level.
    - Final Fantasy II ban đầu dự định có bản nhạc chỉ đề cho airship nhưng lại bị loại bỏ vì không phù hợp với không khí u tối trong game (nó quá “vui vẻ” :D). Một bản nhạc khác dự định dùng làm nhạc nền dungeon nhưng cũng bị bỏ, sau này dùng cho Final Fantasy VI. Nhạc nền trong shop do Nobuo Uematsu soạn nhưng lại một lần nữa bị loại do nghe quá giống với bản Final Fantasy đầu tiên.[/SPOIL]
     
  4. Leon Kenshin

    Leon Kenshin Leon S. Kennedy Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    6/3/04
    Bài viết:
    13,584
    Nơi ở:
    Sài Gòn

    [​IMG]

    Biên dịch & chỉnh sửa: Leon Kenshin (Leon0205)

    Dịch từ
    : http://finalfantasy.wikia.com/wiki/FFIII

    Các bạn có thể xem tại: http://vi.finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_III#C.E1.BB.91t_truy.E1.BB.87n


    [​IMG]

    [spoil]
    Final Fantasy III (ファイナルファンタジーIII Fainaru Fantajī III) ) là phiên bản thứ ba của dòng Final Fantasy, phát triển bởi Square Co., Ltd., và phát hành cho hệ máy Nintendo Family Computer (Famicom). Nó được phát hành bên ngoài Japan lần đầu tiên khi được làm lại trên hệ máy Nintendo DS.

    Cho tới năm 2006, nó là phiên bản duy nhất trong series chưa được chuyển ngữ sang English và cũng là bản chưa từng được chuyển qua hệ máy khác hoặc làm lại.Từng có một kế họach làm lại phiên bản này cho hệ máy cầm tay WonderSwan Color (đã hòan thành với hai bản game đầu và bản thứ tư), nhưng nhà phát triển phải đối mặt với sự khó khăn trong việc chuyển dung lượng từ bản gốc Famicom tới WonderSwan Color, dẫn tới việc dời lại và cuối cùng là hủy bỏ sau khi hệ máy này thất bại. Tuy nhiên, một bản làm lại cho hệ cầm tay Nintendo DS đã được phát hành vào năm 2006 tại Japan và thị tại thị trường Bắc Mỹ cùng vài nơi trên thế giới vào năm 2007. Phiên bản làm lại của Final Fantasy III là phiên bản đầu tiên của game được phát hành trên thế giới.

    Final Fantasy III được sọan bởi Nobuo Uematsu và đây là game thứ 21 được Uematsu soạn nhạc.

    Gameplay

    Cách chơi của game bao gồm những yếu tố của hai bản Final Fantasy trước đó cùng một số điểm mới. Hệ thống điểm kinh nghiệm Experience point đặc trưng trong bản Final Fantasy đầu tiên đã trở lại sau khi nó vắng mặt trong Final Fantasy II. Có một hệ thống nghề nghiệp đặc trưng trong Final Fantasy III, tuy nhiên, không giống như hai bản Final Fantasy trước đó. Tại bản đầu tiên, người chơi chọn cho mỗi nhân vật một nghề nghiệp từ khi bắt đầu và ở bản thứ hai thì không có nghề nghiệp nào cả, Final Fantasy III đã giới thiệu hệ thống nghề nghiệp (Job System) và từ đó trở nên được biết đến. Với bốn thành viên trong nhóm và tất cả 23 Job trong game, có tất cả 279,841 thiết lập nhóm khác nhau. Bản thân các Job đơn giản chỉ là thay thế cho nhau: 4 nhân vật, các hiệp sĩ ánh sáng (Light Warriors), bắt đầu với Job Onion Knights (trong bản Famicom) hoặc Freelancers (trong bản DS) và được đưa tùy chọn để đổi sang những nghề nghiệp khác nhau khi họ tìm được Crystal và hoàn thành sidequest.


    Final Fantasy III là game đầu tiên trong series có những command lệnh đặc biệt trong trận đấu như Steal hay Jump khác với Magic, và mỗi lệnh này có liên quan tới Job đặc trưng. Đồng thời đây cũng là game đầu tiên trong series có tính năng triệu hồi.

    Các nhân vật

    Trong bản gốc NES, người chơi sẽ điều khiển bốn đứa trẻ là các hiệp sĩ ánh sáng, chúng không có sự khác biệt cũng như tính cách và được trao quyền lực từ viên tinh thể gió để cứu thế giới. Mặc dù giới tính của họ chưa từng được đề cập, có giả thuyết cho rằng tất cả là nam giới. Trong suốt cuộc hành trình của họ có các nhân vật khác tham gia nhóm với vai trò hỗ trợ nhưng không hẳn họ sẽ giúp các hiệp sĩ chiến đấu, họ chỉ cung cấp giúp đỡ bản đồ thế giới.

    Bản làm lại cho DS đã mang tới tính cách và lý lịch khác nhau cho họ. Họ có những câu chuyện phía sau và thường được diễn giải tại các nơi họ đến. Nhân vật chính là Lunethsau khi nhận sứ mệnh của mình đã cùng với người bạn thân Arc lên đường thực hiện. Không lâu sau đó họ gặp Refia con gái của người thợ rèn và chàng hiệp sĩ của Sasune, Ingus. Các nhân vật hỗ trợ như Cid và Sara vẫn tham gia nhóm nhưng nay đã tự động giúp đỡ trong trận đấu như đánh quái vật hay cứu chữa cho nhóm.

    Mặc dù Onion Knight không phải là tên chính thức trong phiên bản gốc, phiên bản truyện tranh của game, Legend of the Eternal Legend: Final Fantasy III đã đặt tên cho các hiệp sĩ là Muuchi (ムウチ), Doug (ダグ), J. Bowie (J・ボウイ), và Melfi (メルフィ, chỉ một nữ trong nhóm). Trong các hình từ bản game gốc được thấy trong Dissidia Ultimania, những Onion Knight đã được đưa tên gọi từ 4 nhân vật chính của bản DS.

    Logo của cả hai bản game được vẽ bởi Yoshitaka Amano với hình vẽ một hiệp sĩ lực lưỡng có mái tóc trắng. Nhân vật này chưa từng được biết đến tên gọi cũng như xuất hiện trong game. Tuy nhiên thiết kế của nhân vật này rất giống với nhân vật Bartz Klauser của Final Fantasy V sau này. Kiểu tóc đuôi ngựa và thanh kiếm dài giống như nhân vật Desch trong bản DS. Nhìn tổng quan, anh ta giống với Luneth. Nhiều giả thuyết cho rằng hiệp sĩ vô danh này là hình mẫu cơ bản cho việc tạo hình Luneth sau này.

    Cốt truyện

    Lưu ý phần dưới đây sẽ nói rõ cốt truyện của game

    Nhiều năm về trước, trên lục địa nổi Floating Continent lơ lửng trên bề mặt của một hành tinh không tên, một nền văn minh hiện đại tìm cách khai phá năng lượng của bốn viên tinh thể (crystal) ánh sáng. Họ không nhận ra rằng họ không thể khống chế được những nguồn lực này. Năng lượng của ánh sáng sẽ chiếm trọn thế giới nếu như những tinh thể ánh sáng không có phần đối lập của chúng: bốn viên tinh thể bóng tối. Bị quấy nhiễu bởi sự gián đoạn đột ngột của sự cân bằng ánh sáng và bóng tối, bốn hiệp sĩ đã được cấp nguồn năng lượng của những viên tinh thể bóng tối để lại có được năng lượng của tinh thể ánh sáng (Nói nôm na là ánh sáng và bóng tối cần có sự cân bằng, không cái nào được lớn hơn cái nào). Những hiệp sĩ bóng tối (Dark Warrior) đã thành công trong nhiệm vụ của mình, phục hồi được sự hòa hợp của thế giới. Tuy nhiên đã quá muộn để cứu lấy nền văn minh đã bị diệt vong vì hành động dại dột cố gắng khai thác sức mạnh tinh thể. Niềm tự hào một thời đã lùi vào dĩ vãng, dù rằng lục địa nổi vẫn tồn tại, như một lời nhắc nhở đã có từ trước. Và theo tiến độ, vòng lặp của Gulgans, một tộc của những thầy bói mù dự đoán đuợc nếu sức mạnh của ánh sáng đã được lợi dụng thì sức mạnh của bóng tối cũng có thể. Khi điều đó xảy ra, những viên tinh thể ánh sáng sẽ triệu hồi những hiệp sĩ để phục hồi và tạo lại cân bằn cho thế giới.

    Một ngày nọ, một trận động đất mở ra lối vào hang động ẩn trong Altar Cave gần ngôi làng Ur tại lục địa nổi. 4 đứa trẻ được nhận nuôi bởi già làng Topapa đã khám phá và tìm thấy một viên tinh thể ánh sáng, viên tinh thể của gió (Wind Crystal). Viên tinh thể đã trao cho họ một phần sức mạnh và họ có vài nghề nghiệp (Job) đầu tiên, đồng thời hướng dẫn họ đi tìm những viên còn lại nhằm khôi phục sự cân bằng của thế giới. Không hiểu lắm về những lời dặn dò của tinh thể nhưng những đứa trẻ cũng hiểu được sự quan trọng đó vì vậy họ đã kể lại với gia đình nuôi và lên đường thực hiện sứ mệnh.

    Trong phiên bản DS, chỉ mình Luneth rơi xuống và khám phá viên tinh thể của gió và chưa nhận đựoc sức mạnh vào lúc này. Sau khi nhận ra vai trò của mình, cậu đã tìm cậu bạn thân Arc, người được chọn trong số những đứa trẻ trong làng. Họ cùng nhau đi tới Kazus, ngôi làng bị nguyền rủa bởi Djinn. Họ gặp Refiavà cả ba cùng tới Castle Sasune gặp nhà vua để tìm Mythril Ring. Ingus – cận vệ hoàng gia là người thứ tư gia nhập nhóm.

    Cả bốn trở về Kazus và vào Sealed Cave. Họ tìm được công chúa Sara, người đang giữ chiếc nhẫn Mythril và với sự giúp đỡ của cô, cả nhóm đã tiêu diệt được Djinn. Sara trở về lâu đài trong khi cả nhóm dịch chuyển tới Altar Cave, nơi hiện hữu Wind Crystal. Viên tinh thể đã trao cho họ năng lực của ánh sáng và những nghề nghiệp cơ bản và họ trở thành những hiệp sĩ ánh sáng (Warrior of Light). Cả nhóm được hướng dẫn đi tìm những viên tinh thể khác nhằm mang lại sự cân bằng cho thế giới.

    Trở về Castle Sasune, công chúa Sara đã sử dụng Mythril Ring nhằm phá giải lời nguyền cho những người dân. Các hiệp sĩ nói lời tạm biệt cô và Ingus hứa sẽ trở về thăm cô. Sau đó họ lên đờng tìm Cid tại Kazus. Cid sử dụng chiếc thuyền của ông giúp các hiệp sĩ di dời tảng đá chắn đường và hậu quả là chiếc tàu bay đã bị hư hại. Để tiếp tục sứ mệnh của mình. họ phải gặp được King Argus, tuy nhiên họ cần một chiếc thuyền để đi tiếp.

    Lúc này, cả nhóm đi tới thị trấn Canaan và gặp vợ của Cid cùng cô gái lạ mặt tên Salina. Cô ta buồn bã vì sự mất tích của người yêu: Desch. Cả nhóm, nghe được anh ta đã mua phép thuật Mini là thứ họ đang tìm kiếm, vì vậy họ quyết định tới Dragon's Peak là nơi cuối cùng người ta thấy Desch. Sau khi lên tới đỉnh rồng, họ đụng độ và bị bắt cóc bởi Bahamut và bị quăng vào tổ của nó. Tại đây gặp được Desch và anh ta đã bị mất trí nhớ, vì vậy anh quyết định tham gia nhóm với hy vọng phục hồi được ký ức đã mất.

    Sử dụng phép thuật Mini của Desch, cả nhóm tới được Tozus, ngôi làng của những người tí hon. Họ đi qua Tozus Tunnel, Myranos Mountains và tới được Vikings Cove nơi có thể nhận được một chiếc thuyền. Tuy nhiên họ nhận ra những người Viking đang náo lọan vì Nepto Dragon trở nên giận dữ, vì vậy thuyền trưởng yêu cầu các hiệp sĩ trợ giúp.

    Cả nhóm đi tới Nepto Temple và họ tìm được tượng của Nepto Dragon bị thiếu viên ngọc tại một mắt. Họ thu nhỏ mình và men theo các đường hầm tại các khe tường và chiến đấu với các quái vật bên trong. Cuối cùng họ tìm ra con mắt bị thiếu do một con chuột lấy cắp và họ đã đánh bại nó. Họ đem con mắt gắn vào chỗ cũ và làm dịu đi sự giận dữ của Nepto Dragon. Bày tỏ lòng biết ơn với các hiệp dĩ, những Viking đã tặng cho họ một chiếc thuyền mang tên Enterprise.

    Căng buồm với Enterprise, cả nhóm bắt đầu khám phá lục địa. Họ đi tới Village of the Ancients và biết được lục địa mà họ đang sống thực ra đang lơ lửng bên trên thế giới cũ. Họ tìm tới Tower of Owen và chiến đấu bên trong ngọn tháp, nghe được những lời chế nhạo từ một người bí ẩn. Khi họ tới được căn phòng chính, họ phát hiện ra Medusa , thuộc hạ của Xande đang đợi họ. Sau khi tiêu diệt Medusa, ký ức của Desch trở về. Anh ta nhớ ra anh là một trong những người canh giữ tòa tháp này từ xa xưa. Anh đồng thời kể với các hiệp sĩ rằng tòa tháp này có nhiệm vụ giữ cho lục địa này lơ lửng trên không trung. Để ngăn chặn việc tòa tháp sụp đổ, Desch đã lao mình vào lò lửa, việc này ảnh hưởng nhiều tới tinh thần của Refia. Tòa tháp ngừng lắc lư và cả bốn người rời khỏi.

    Cả nhóm tới Dwarven Hallows nhằm tìm kiếm viên tinh thể của Lửa (Fire Crystal). Những người lùn đang lo lắng vì một trong các chiếc sừng đá quý giá đã bị trộm bởi Gutsco the Rogue . Họ theo dấu hắn ta tới hồ nước ngầm và phải sử dụng phép thuật Toad. Sau khi "tiêu diệt" được hắn, họ trở về Dwarven Hallows và theo dấu bóng đen bí ẩn. Khi họ tới điện thờ chính, Gutsco hiện nguyên hình và lấy cả hai chiếc sừng.

    Cả nhóm theo dấu hắn ta lần nữa và lần này họ tới được Molten Cave . Gutsco đã đưa họ thẳng tới viên tinh thể của Lửa và hắn hấp thụ năng lượng của nó. Hắn biến thành một con rồng và trận chiến bắt đầu. Khi đánh bại Gusco lần thứ hai. họ nhận được ánh sáng từ Fire Crystal và thêm vào một số nghề nghiệp mới. Họ mang những chiếc sừng đá trở về.

    Với những nghề nghiệp và kỹ năng mới, nhóm hiệp sĩ ánh sáng đi tới Tokkul, một ngôi làng bị tàn phá. Họ nhận ra rằng phù thủy xấu xa Hein, kẻ từng cố vấn cho nhà vua Arrgus, nay bắt cóc ông và bắt dân chúng làm nô lệ và khống chế sức mạnh của Elder Tree trong Living Woods. Cả nhóm bị tấn công và bị bắt bởi thuộc hạ của Hein, quăng họ vào Castle Hein mà thực chất đó chính là Elder Tree đang lơ lửng.

    Các hiệp sĩ đánh bại tên phù thủy xấu xa và phục hồi lại Elder Tree. Khi đến Castle Argus, nhà vua Argus đã chào đón và cảm ơn họ về những gì họ đã làm. Họ nhận được Wheel of Time từ nhà vua và mang nó về lại cho Cid. Ông đạ thay đổi cấu trúc của chiếc thuyền thành một chiếc tàu bay và kể cho họ nghe về sự thật. Cả bốn người không đến từ lục địa nổi mà từ thế giới bên dưới. Họ đi ngao du cùng ông khi còn rất nhỏ. Chiếc thuyền va vào một đám mây bí ẩn rồi rơi xuống, từ đó trở đi Cid không còn thấy họ nữa. Nhóm bạn đã đi xuống thế giới bên dưới và nhận ra "lục địa" trước kia họ sinh sống chẳng qua là một hòn đảo nhỏ giữa thế giới rộng lớn.

    Thế giới bên dưới là một mớ hỗn độn với vài khối đá lớn dễ dàng trông thấy. Cả nhóm điều khiển Enterprise tới một con tàu đắm và tìm thấy một người đàn ông lớn tuổi đang chăm sóc một cô gái trẻ bên trong. Bọn họ cứu chữa cho cô bằng một bình Potion và cô ta nhanh chóng hồi phục. Cô nhận ra họ là những hiệp sĩ ánh sáng và hiểu được thế giới đã không còn bị đóng băng nữa. Aria đã cùng các hiệp sĩ tới ngôi đền của nước (Temple of Water) nhằm hồi phục ánh sáng của viên tinh thể Nước (Water Crystal), đồng thời mở lối vào Cave of Tides.

    Aria tiết lộ cô là một trong những người chăm sóc viên tinh thể của Nước. Họ đi theo con đường tới viên tinh thể và Aria đưa mảnh vỡ về lại viên tinh thể. Khi cô bước lên điện thờ, cô chỉ dẫn nhóm bạn cách đưa lại ánh sáng tới viên tinh thể. Khi họ vừa tiếp cận thì Aria bất ngờ đẩy Luneth ra khỏi con đường bỗng dưng phát nổ. Cô ngã xuống và Kraken hiện nguyên hình. Cả nhóm chiến đấu với hắn ta và Kraken thất bại. Ánh sáng đã được phục hồi và thế giới lúc này trở lại như cũ, nhưng Aria đã ra đi mãi mãi.

    [​IMG]

    Artwork vẽ bởi Akihiko Yoshida.

    Tại thế giới mới, cả nhóm đi tới làng Amur. Họ tìm đến cung điện của Goldor để lấy chiếc chìa khóa dẫn tới viên tinh thể thứ tư. Goldor cố gắng phá hủy viên tinh thể nhưng chiếc chìa khóa đã bị rớt. Nhóm bạn trở về Amur và bay lượn trên Enrerprise khám phá một số làng mạc rồi bị bắn bất ngờ tại Megalopolis of Saronia. Họ nhận ra vương quốc bị náo loạn bởi các lệnh của nhà vua và dường như ông này bị tâm thần. Quân đội bị chia ra và tự tấn công lẫn nhau, các cửa tiệm khắp nơi phải đóng cửa. Họ tìm được con trai của nhà vua, hoàng tử Alus tại phía tây nam Saronia, người bị đuổi khỏi vương quốc bởi chính cha anh ta. Arc thuyết phục mọi người hộ trợ Alus. Kỳ lạ thay, khi trở về, bọn họ được phép vào lâu đài. Trong đêm hôm đó, Alus tỉnh dậy và phát hiện cha anh đang đứng cạnh giường với một con dao. Nhà vua tự sát bằng cách đâm vào bụng mình nhằm thoát khỏi bùa chú của Garuda. Cả nhóm chiến đấu và tiêu diệt Garuda. Hoàng tử Alus trở thành vị vua mới.

    Không lâu sau đó, các học giả nói với cả nhóm rằng chiếc tàu bay Nautilus vừa được khai quật và bằng cách sử dụng nó, họ đã tới được lục địa Dalg (Dalg Continent) nằm bên những bầu trời nguy hiểm. Họ gặp Doga và chú Moohle cận vệ của ông tại Doga's Mansion. Ông tham gia nhóm và sử dụng Mini lên họ để vào được The Cave of the Circle. Khi bọn họ đi gần hết hang động, Doga sử dụng phép thuật làm cho Nautilus có thêm chức năng như tàu ngầm là đi dưới nước. Ông nói cả nhóm hãy tới Temple of Time và phục hồi Noah's Lute là thứ sẽ đánh thức được Unei, người hiện là hộ vệ của lãnh địa giấc mơ đang ngủ say vĩnh viễn. Sau đó ông ta rời nhóm và nhờ họ nói với Unei về những gì liên quan tới ông.

    Những chiến sĩ ánh sáng đã sử dụng Noah's Lute nhằm đánh thức Unei đang ngủ say. Bà ta vui vẻ gia nhập nhóm và bọn họ đi tới Ancient Ruins và được điều khiển chiếc tàu bay lớn gọi là Invincible. Sau khi diễn giải chức năng của tàu bay, bà nói lời tạm biệt và hẹn cả nhóm tại nhà của Doga.

    Khi cả nhóm tới Cave of Shadows, họ tìm được the Fang of Earth và họ mang nó trở về nhà của Doga để gặp ông và Unei. Khi vừa bước vào, họ được dịch chuyển tới một hang động nơi Doga và Unei đang chờ họ. Tại đó, cả hai nói với những hiệp sĩ ánh sáng hãy đánh bại họ trong trận chiến. Việc này có vẻ miễn cưỡng, họ cố gắng giải thích vì sao họ cần phải chết. Linh hồn của hai người khi chết sẽ là năng lượng cần thiết cho chìa khóa mở được vùng đất cấm Eureka và tháp tinh thể (Crystal Tower).

    Trước khi vào Crystal Tower, họ đi tới Maze of the Ancients, nơi chứa viên tinh thể cuối cùng. Sau khi nhận được những nghề nghiệp cuối cùng thì các hiệp sĩ vào Crystal Tower và cố gắng vượt qua Dark World. Trước khi qua được, họ thấy bản thân họ bị lời nguyền của 5 con rồng (The curse of the Five Wyrms), là thứ giam giữ cả nhóm tại nơi này. Doga nói rằng cần tìm 5 đồng đội mà các hiệp sĩ đã gặp trong suốt cuộc hành trình nhằm hóa giải lời nguyền này. 5 người đó là công chúa Sera, Cid, Desch - người vẫn chưa chết khi hy sinh thân mình tại tòa tháp, vua Alus và một trong bốn người đàn ông già tại Amur. Sau khi giải được lời nguyền, tất cả đồng đội nguyện cầu cả nhóm hiệp sĩ ánh sáng gặp may mắn, trước khi bọn họ bước vào thế giới bóng tối (World of Darkness).

    Cả nhóm đã đối mặt với Xande và tiêu diệt hắn. Sau cái chết của Xande thì họ đã gặp được Cloud of Darkness, kẻ đứng sau mọi chuyện và điều khiển Xande với mục đích muốn thế giới trở về cõi hư vô. Cả nhóm đã thất bại khi chiến đấu với bà ta và bị tiêu diệt. May mắn thay, với ánh sáng của năm đồng đội họ từng giúp trước đó, nhóm hiệp sĩ đã được hồi sinh và tiếp tục vào thế giới của bóng tối. Cả nhóm đã đánh bại bốn sinh vật xấu xa là những kẻ bảo vệ những viên tinh thể bóng tối. Nhữn viên tinh thể này tiết lộ rằng bốn hiệp sĩ bóng tối là những người có thể giúp những hiệp sĩ ánh sáng đánh bại Cloud of Darkness. Điều này giống như nhiều năm về trước các hiệp sĩ bóng tối đã làm nhằm ngăn chặn ánh sáng tràn ngập khắp nơi.

    Khi tất cả bọn họ đối mặt với Cloud of Darkness lần nữa, các hiệp sĩ của bóng tối đã hy sinh bản thân để các hiệp sĩ ánh sáng có thể tiêu diệt bà ta. Trong trận chiến cuối cùng, Cloud of Darkness đã bị tiêu diệt và những hiệp sĩ cùng đồng đội trở về nhà của bọn họ. Người đàn ông già trở về Amur, Alus trở về vương quốc của ông, Cid và Desch cũng trở về với người họ yêu thương. Sara không muốn xa Ingus, vì vậy cô đã ở cạnh anh một chút. Mỗi hiệp sĩ đều kết thúc sứ mệnh của họ, khi Ingus và Sara trở về lâu đài Sasune, Refia trở về nhà rèn tại Kazus và Luneth cùng Arc trở về làng Ur. Điều này có hơi mâu thuẫn với phiên bản Famicom khi tất cả hiệp sĩ đều cùng nhau trở về làng Ur.

    Kết thúc phần nói rõ cốt truyện tại đây

    Quá trình phát triển

    Bản NES

    Phiên bản NES của Final Fantasy III sử dụng hệ thống độ họa như hai bản game trước đó. Tuy nhiên nó đã mở rộng hệ thống gameplay đáng kể bằng việc giới thiệu hệ thống nghề nghiệp được thay đổi. Một điểm nữa được thêm vào là hệ thống tự động nhắm đối tượng. Trong hai tựa game trước, khi một nhân vật đang tấn công một đối thủ đã bị chết bởi lần tấn công trước đó thì nhân vật sẽ đánh vào không khí với dòng thông báo "Không hiệu quả" (ineffective).

    Phiên bản NES cũng lọai bỏ những dòng chữ hiện ra trong trận đấu trong 2 game trước đó. Trước kia, khi tấn công, niệm phép, sát thương, số hits... và những thông tin khác, tất cả đều được diễn giải tại một khung phía dưới màn hình. Final Fantasy III đã thay thế nó bằng việc hiện sát thương trên đối thủ ngay khi tấn công.

    Một thay đổi nữa là phông nền của tất cả cửa số và menus đã đổi từ đen tới xanh, một số đã trở thành yếu tố chủ chủ của nhiều game trong series.

    Đây cũng là lần đầu tiên các nhân vật có các command lệnh duy nhất tùy theo Job trong trận đấu như Summon, Throw và Jump.


    Bản Nintendo DS

    Final Fantasy III được làm lại cho Nintendo DS lần đầu đuợc tiết lộ quá trình phát triển vào ngày 07/10/2004 nhưng thông tin chi tiết vẫn được giữ kín cho tới năm sau đó. Hiromichi Tanaka, một trong những người thiết kế bản NES phụ trách vai trò quan trọng của dự án tại hai vị trí giám đốc điều hành và đạo diễn. Sự hướng dẫn và giám của ông là cần thiết vì game không phải là bản cập nhật như Final Fantasy I & II: Dawn of Souls. Game sẽ sử dụng hệ thống đồ họa 3D của Nintendo DS mặc dù các dungeon và làng mạc vẫn như cũ. Ryosuke Aiba, đạo diễn hình ảnh của Final Fantasy XI được thuê làm đạo diễn hình ảnh của game này.

    Akihiko Yoshida được thuê để thiết kế lại nhân vật và game đã thay đổi từ các nhân vật chính tới việc phát triển tính cách của họ. Những nhân vật chính nay có tên mặc định: Luneth (Runesu), Arc (Arukuu), Refia (Refia), and Ingus (Inguzu). Luneth, Arc và Ingus là nam và Refia là nữ. Các nhân vật được đưa những lý lịch và quá khứ để phát triển tuy nhiên sẽ không thay đổi bất cứ thứ gì trong câu chuyện chính.

    Có sự thay đổi chỉnh sửa trong hệ thống nghề nghiệp (Job System), bao gồm việc cân bằng lại các nghề nghiệp, thêm vào các kỹ năng mới, thêm nghề mới như "Bare" (hay "Freelancer" trong bản Bắc Mỹ) đã thành nghề nghiệp mặc định cho các nhân vật ngay đầu game (Onion Knight trở thành Job riêng biệt có những ưu điểm và bất tiện) và sự thay đổi Job sẽ thông qua Capacity Points. Không như phiên bản nguyên thủy, 2 Job mạnh nhất là Ninja và Sage nay đã cân bằng lại để phù hợp hơn khi cùng cấp độ với các Job khác.

    [​IMG]
    Giao diện trận đấu bản DS

    Cuối cùng, game sử dụng hệ thống Wifi của DS dựa trên hệ thống gởi thư là "Mognet" và có chức năng gần giống trong game Final Fantasy IX, cho phép người chơi trao đổi các tin nhắn qua hệ thống Wifi. Sử dụng Mognet có thể mở khóa và hoàn thành các nhiệm vụ phụ bằng cách gởi thư tới các NPC.

    Phiên bản làm lại này đã được phát hành tại Bắc Mỹ vào 14/11/2006. Game phát hành tại Châu Âu vào 04/05/2007. Một số chỉ trích lớn nhất của game là thực tế trong các trận đấu có sự khác nhau so với bản gốc bởi sự hạn hẹp về dung lượng của một game DS, vì vậy có rất ít đối thủ trên màn hình. Tuy nhiên bằng cách thay đổi hệ thống nghề nghiệp, các đối thủ nay đã được nâng cấp mạnh hơn để bù lại số lượng đã giảm. Người chơi cần rèn cấp độ trước khi đánh trùm vì đối thủ sẽ tấn công thường xuyên và không nương tay. Trong bản Final Fantasy IV làm lại sau này, dung lượng đã được tăng lên cho phép các nhà phát triển giữ lại số lượng quái vật như bản gốc.

    Phiên bản DS đặc biệt

    Cùng một ngày khi Final Fantasy III phát hành, Square-Enix đã bắt đầu bán bản đặc biệt gồm game và một máy DS Lite màu tinh thể trắng. Máy DS này có hình vẽ của Akihiko Yoshida phía trên thân máy gồm logo Final Fantasy III và vài nhân vật chính của game. Bản này chỉ phát hành tại Nhật Bản.

    Easter Eggs

    * Trong phiên bản Famicom, một cô gái nhỏ ẩn sau căn phòng phía đông của làng Gyshal, khuyến khích người chơi viết thư yêu cầu tới Square, liệt kê danh sách địa chỉ gởi thư.
    * Trong Ur và Amur có những cây đàn piano mà Luneth và các thành viên còn lại có thể chơi
    * Tại nhiều làng có những vũ công trông giống hệt nhau nhưng đã được đổi màu sắc
    * Những vũ công trong phiên bản DS dường như giống những vũ công trong bản Final Fantasy IV DS.

    Ngoài lề

    * Trong bản DS có một sự mâu thuẫn trong câu chuyện rằng làm thế nào 4 đứa trẻ đến từ đâu. Theo Cid, những đứa trẻ không tới từ thế giới này, bắt đầu 10 năm trước thời điểm của trò chơi, ông đã di dời những người đi và đến những lục địa khi có một thế lực ác không biết từ đâu tấn công dẫn tới thuyền của ông bị phá hủy. Điều này mâu thuẫn với những gì Unei tại một điểm của game: rằng Surface World đã được đóng trong 1000 năm. Tuy nhiên, việc này có thể do sự bất thường của thời gian gây ra khi Surface World đã chìm trong bóng tối, với tất cả những gì Cid biết, ông ấy cũng có thể trôi dạt đâu đó, bị đóng băng trong thời gian, cho 1000 năm, cho đến khi năng lượng Crystalcho phép chiếc tàu bay của ông trôi dạt tới Floating Continent và giải phóng ông khỏi sự đóng băng thời gian.

    * Năm 1999, Final Fantasy III đã được chuyển ngữ không chính thức bởi Neill Corlett và Alex W.Jackson. Có một bản thay thế hoàn toàn ngòai bản chuyển ngữ được biết đến.

    * Đây là lần đầu tiên Moogle và Fat Chocobo xuất hiện trong series.

    * Nhiệm vụ "vòng quanh thế giới trên Chocobo để nhận thưởng" bắt nguồn tại đây và được lặp lại trong Final Fantasy V.

    * Đây là game đầu tiên trong series sử dụng đồ họa trình diễn điểm sinh mệnh hit points khi một đối tượng bị tấn công hoặc cứu chữa, hơn là sử dụng lời diễn giải trong hai bản game đầu tiên. Lần đầu tiên có kèm tự động nhắm mục tiêu và cũng là lần đầu kèm nhạc trận đấu đặc biệt cho các trận đấu trùm. Tất cả những điểm này đều có trong các bản làm lại của hai bản trước.

    * Cái tên Doga và Unei là hai nhân vật chủ chốt trong game, xuất hiện nhiều trong các game Final Fantasy, gồm cả Final Fantasy IX, với một nhiệm vụ phụ liên quan tới hai món đồ tên “Doga’s Artifact” và “Une’s Mirror”. Những món đồ này mở khóa một bản nhạc tên “Doga và Une” tại Black Mage Village.

    * Vài bài nhạc của game được sử dụng trong Chocobo Racing, bao gồm bài mở đầu ("Crystal Cave") và bài trong trận chiến cuối cùng.

    * Hầu hết các sprites cho 8-Bit Theater đều từ bản game Final Fantasy gốc, nhiều những sprites kèm theo sự đổi nghề nghiệp của Light Warriors là những game sprites từ Famicom Final Fantasy III.

    * Nhạc nền nguyên thủy cho làng Amur Amur được sử dụng cho bài "Cloud Smiles" trong Final Fantasy VII: Advent Children.

    * Trong ý tưởng ban đầu của bản DS, Luneth, Arc, Refia và Ingus là những đứa trẻ được nhận nuôi của Topapa, tuy nhiên nó đã được thay đổi để làm bốn nhân vật riêng biệt và có câu chuyện riêng của họ.

    * Trong Dissidia Final Fantasy, Onion Knight mang một thanh kiếm màu vàng gợi nhớ thanh kiếm của hiệp sĩ vô danh. Thực tế, khi cậu ta thay đổi tới Ex-Mode Ninja, cậu ta sử dụng hai thanh kiếm (một là thanh kiếm vàng, cái còn lại là đỏ) và đó cũng gợi nhớ tới kiếm của hiệp sĩ vô danh . Ngoài ra trong trạng thái Ninjutsu Ex-Burst, khi cậu ta kết thúc với chiêu Back Attack!, vị trí cũng tương tự như hiệp sĩ vô danh trong logo của Final Fantasy III.

    [​IMG]

    Chàng hiệp sĩ vô danh, hình vẽ bởi Yoshitaka Amano

    * Trong Final Fantasy IV: The After Years, Two Headed Dragon, Echidna, Cerberus và Ahriman là những hộ vệ của True Moon. Trong Final Fantasy 20th Anniversary và Final Fantasy gồm 2 bản Final Fantasy I & II: Dawn of Souls,chúng là các con trùm trong Earthgift Shrine.

    * Final Fantasy III là game duy nhất trong series chính chưa từng lên hệ máy của Sony, dù rằng từng được Square Enix cân nhắc chuyển qua cho PlayStation 2, nhưng cuối cùng lại bị thuyết phục bởi Nintendo để phát triển cho máy chơi cầm tay mới của họ, Nintendo DS.


    [/spoil]
     
  5. king_dragontb

    king_dragontb ✯Final Fantasy Collector✯ Moderator Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    3/1/06
    Bài viết:
    4,167
    Nơi ở:
    Grand Line
    [​IMG]

    Tên game: Final Fantasy V (ファイナルファンタジV ーFainaru Fantajī V)

    [​IMG]

    Biên dịch: king_dragontb
    Chỉnh sửa: king_dragontb
    Nguồn:
    http://finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_V

    [SPOIL]Final Fantasy V (ファイナルファンタジーV - Fainaru Fantajī V) là phần thứ 5 trong series Final Fantasy của Square Co.,Ltd, phát hành cho máy Nintendo Super Famicom. Trò chơi đã được chuyển sang hệ Sony PlayStation, được dịch sang tiếng Anh, phát hành ở Bắc Mỹ và châu Âu trong bộ Final Fantasy Anthology. Phiên bản Super Famicon được biết đến là game đầu tiên do fan dịch hoàn chỉnh (do RPGe thực hiện năm 1997). Final Fantasy V sau này còn được làm cho Gameboy Advance trong bộ Finest Fantasy for Advance.

    Truyện game xoay quanh hành trình của 4 nhân vật chính không hề quen biết tình cờ tụ họp lại để cứu những viên Crystal đang dần bị phá vỡ. Đứng đằng sau sự kiện này là ác quỷ Exdeath, tất cả nằm trong kế hoạch nhằm giải thoát hắn khỏi ngục tù và đoạt lấy sức mạnh từ Void, một vương quốc hư vô có thể ban tặng sức mạnh vô biên cho ai có khả năng tiếp nhận nó. 4 người cùng nhau hợp sức chống lại Exdeath và ngăn chặn nguồn sức mạnh từ Void làm hai thế giới.

    Đây là phiên bản Final Fantasy đầu tiên trên máy Super Famicom sử dụng chữ tiếng Nhật kiểu Kanji. Các bản Final Fantasy trước trên NES đều dùng lời thoại kiểu Hiragana do giới hạn về kí tự. Final Fantasy IV là phần cuối cùng dùng kiểu chữ đó (cho dù lúc này đã có thể dùng chữ Kanji) và có liên hệ chặt chẽ nhất với những bản đầu.

    Anime Final Fantasy: Legend of the Crystals là phần mở rộng có liên quan đến game, kể về 200 năm sau những sự kiện trong Final Fantasy V.

    Gameplay

    Nhân tố chính trong gameplay là hệ thống Job được tân trang lại (một dạng khác so với Final Fantasy III và được dùng trong Final Fantasy đầu tiên), cho phép tất cả các nhân vật có khả năng làm chủ được 22 loại nghề nghiệp khác nhau. Người chơi bắt đầu game mà chưa có Job nào (tất cả được mặc định là “Freelancer”, một nghề có thể quay lại sau này), mỗi khi nhân vật tới một điểm Crystal, họ được nhận những Job mới. Một dạng khác của điểm kinh nghiệm, ABP, được tạo ra để dùng trong việc lên cấp của Job. Tất nhiên nhân vật vẫn nhận được điểm EXP như bình thường. Hệ thống cũng cho phép công thức tổ chức dạng “đa nghề nghiệp”, cho phép mỗi nhân vật học những kĩ năng đặc biệt của Job và mang theo 1 hay 2 kĩ năng khi thay đổi nghề. Hệ thống Job sau này không được dùng trong series một thời gian, mãi đến Final Fantasy Tactics, Final Fantasy XI và Final Fantasy X-2 mới có lại.

    [​IMG]
    Màn hình Job trong bản fan dịch

    Đổi mới trong battle bao gồm có việc tút lại hệ thống Active Time Battle, người chơi có thể (lần đầu tiên trong series Final Fantasy) biết được lượt tiếp theo thuộc về ai. Những quy tắc Final Fantasy mới như thêm Blue Mage đã tạo ra nhiều nhân tố mới cho các trận chiến.

    Giống nhiều phần khác trong dòng game, bản này cũng có những “siêu” boss như Omega hay Shinryu. Cả 2 con trùm này đều có thể ngay lập tức hạ gục nhóm của bạn (cho dù các thành viên đều có HP tối đa) và cần phải có những chiến thuật đặc biệt để tiêu diệt chúng. Người chơi không bắt buộc phải đối mặt với những đối thủ này. Nếu hạ được Shinryu, bạn sẽ nhận được thanh kiếm mạnh nhất trong game. Diệt được Omega, người chơi có Huy hiệu Omega, giúp cho các Light Warrior mạnh hơn bản sao của mình 100 năm trước, ngoài ra nó chẳng còn tác dụng gì nữa.

    Final Fantasy V còn giới thiệu miniboss sau này thường gặp trong series - Gilgamesh. Bartz và bạn của mình chiến đấu với hắn vài lần trong game. Sau này trong series bạn sẽ gặp những đối thủ tương tự như Ultros (Final Fantasy VI), the Turks (Final Fantasy VII), Biggs và Wedge (Final Fantasy VIII), Seifer (Final Fantasy VIII), Beatrix (Final Fantasy IX), Seymour Guado (Final Fantasy X), Leblanc, Logos và Ormi (Final Fantasy X-2).

    Nhân vật

    [​IMG]
    Các nhân vật trong Final Fantasy V với hình Lenna và Faris lớn nhất

    Trò chơi có 5 nhân vật chính. 4 nhân vật đầu đi cùng nhau trong hầu hết trò chơi, đến khi một người bị thay thế vĩnh viễn bởi nhân vật thứ 5.

    - Bartz Klauser (バッツ・クラウザー; Battsu Kurauzā) - nhân vật chính (chỉ vì anh là người đầu tiên người chơi điều khiển và luôn xuất hiện trong nhóm), người thích phiêu lưu khắp nơi. Anh bị lôi vào chuyến du hành ngay từ đầu khi đến được vị trí thiên thạch rơi cùng Chocobo của mình, Boko, và gặp Lenna tại đó. Tên gốc của anh là Butz trong bản tiếng Nhật và trong bản do fan dịch cũng vậy.
    - Lenna Charlotte Tycoon (レナ・シャルロット・タイクーン; Rena Sharurotto Taikūn), vốn là một công chúa, gặp Bartz ở chỗ thiên thạch rơi. Cô là con gái Vua Tycoon. Tên cô đã bị dịch sai thành Reina trong bản PlayStation cho phương Tây.
    - Galuf Halm Baldesion (ガラフ・ハルム・バルデシオン; Garafu Harumu Barudeshion), một ông lão bí ẩn. Ông được tìm thấy ở chỗ thiên thạch và bị mắc chứng mất trí. Sau này thân phận của ông được hé lộ trong quá trình chơi game.
    - Faris Schewiz (ファリス・シュヴィルツ; Farisu Shuvirutsu), là một cướp biển, tàu của cô được dùng cho nhóm di chuyển. Cả nhóm gặp mặt Faris khi họ cố lẻn lên tàu. Phần đầu của game, Faris cải trang thành đàn ông. Cô có mối liên hệ với Lenna, phần sau của game tiết lộ chuyện này.
    - Krile Mayer Baldersion (クルル・マイア・バルデシオン; Kururu Maia Barudeshion), cháu gái Galuf, đi theo hỗ trợ nhóm một vài lần. Sau này cô thay vị trí của Galuf. Trong bản do fan dịch, tên cô là Cara.

    Cốt truyện

    Game bắt đầu khi nhân vật chính, Bartz Klauser, một người lữ hành đơn độc cùng con chocobo của mình tên Boko, phát hiện một địa điểm có thiên thạch rơi gần Tycoon. Tại đây anh gặp một người thiếu nữ đang bị bọn Goblin tấn công. Anh giải cứu cho cô gái và biết được tên cô là Lenna Charlotte Tycoon. Sau khi nói chuyện, họ phát hiện ra một ông lão nằm ở gần thiên thạch và người này bị mất trí nhớ, ngoại trừ tên mình, Galuf Doe. Lenna cho biết cô đang trên đường đến Wind Shrine, nơi cha cô, Alexander Highwind Tycoon, vua của vương quốc Tycoon, đã tới để tìm hiểu vì sao gió lại ngừng thổi. Galuf đột nhiên nhớ ra là ông cũng cần tới đó (dù là không hiểu vì sao) nên đã đi cùng Lenna. Bartz tiếp tục hành trình của mình nhưng con chocobo của anh bắt anh phải quay lại để giải cứu Lenna cũng Galuf khỏi tay lũ Goblin khác. Sau đó 3 người quyết định cùng nhau đi tới Wind Shrine nhưng con đường đã bị chặn bở một vụ lở đất, nên đi bằng đường thủy là cách duy nhất.

    [​IMG]
    Lenna, Faris và Bartz

    Vì không có gió nên không thể đi bằng thuyền buồm được. Tuy nhiên, bộ ba đã thấy một tàu cướp biển đang neo ở một bến cảng hẻo lánh, và họ có ý định đánh cắp nó. Thuyền trưởng Faris Scherwiz bắt được họ nhưng nhận ra được vòng cổ của Lenna nên đã quyết định giúp họ đến Wind Shrine. Về sau khi cả nhóm bị kẹt ở khu Mộ Tàu (Ship Graveyard), khi đang cố gắng thay quần áo ướt cho Faris, sự thật mới được tiết lộ rằng Faris là con gái.

    Họ phát hiện ra rằng 4 crystal tượng trưng cho 4 nguyên tố Gió, Đất, Lửa và Nước thực ra là để phong ấn Exdeath, một phù thủy hùng mạnh. Hắn đang âm mưu chiếm lấy thế giới nhiều năm trước khi một cái cây bị linh hồn quỷ dữ ám vào nhưng phong ấn ngăn hắn không làm được chuyện đó. Không may là mỗi viên crystal đang được dùng để cải thiện cuộc sống con người, sức mạnh của chúng đang bị hút cạn. Khi có ai đó muốn chiếm đoạt crystal thì từng viên một sẽ bị phá hủy.

    Khi đang trên đường đi cứu viên crystal cuối cùng, họ gặp Krile Mayer Baldesion, cháu gái Galuf và cô giúp cho Galuf khôi phục lại trí nhớ. Tuy nhiên vì viên crystal cuối cùng đa bị phá hủy nên Exdeath thoát được khỏi phong ấn và bay tới hành tinh quê hương Galuf. Galuf cùng Krile đuổi theo hắn và không cho Bartz, Lenna, Faris đi cùng vì quá nguye hiểm. Nhưng họ đã quyết định cùng lên đường. Khi tới nơi thì Exdeath đã tiến hành cuộc tàn phá, hiện hắn đang giao chiến với quân đội của Galuf tại Big Bridge. Sau đó, Bartz, Lenna cùng Feris bị bắt nhưng Galuf lẻn được vào lâu đài của Exdeath để cứu họ, ông hạ gục được cả Gilgamesh, một tên tay sai trên đường đi. Các chiến binh bị thổi bay tới một lục địa xa xôi khi rào chắn được kích hoạt để chạn họ chạy trốn. Mọi người buộc phải đi tới Lâu đài bal và phát hiện ra rằng Galuf thực chất là vua của thế giới này. Họ được khuyên hãy đi gặp nhà hiền triết Ghido nhưng Exdeath đã nhấn chìm hòn đảo nơi ông sinh sống xuống đáy đại dương.

    Nhóm gia nhập cùng với lực lượng của Xezat Matias Surgate, bạn của Galuf, người đang chỉ huy một hạm đội chống lại Exdeath, cũng là người hình thành đội Warrior of Dawn. Họ xâm nhập được vào ngọn tháp cung cấp năng lượng cho màn bảo vệ lâu đài của Exdeath nhưng Xezat đã phải hi sinh tính mạng để giúp nhóm làm được việc này. Nhóm vào được lâu đài nhưng phát hiện ra nó đã bị phong ấn và Exdeath đang tìm kiếm gì đó lại Rừng Già Moore. Họ tìm đến được Cây Thần và hủy bỏ được phong ấn, nhưng Exdeath thu nhận được sức mạnh của crystal và đánh bại nhóm. Krile nhảy vào can thiệp nhưng bị Exdeath giam trong một vòng tròn lửa. Galuf phá vỡ crystal, giải cứu Krile và chiến đầu với Exdeath đến khi bất tình. Exdeath tháo chạy còn Galuf chết vì vết thương quá nặng.

    Cả nhóm lập tức tới lâu đài của Exdeath và đánh bại hắn, nhưng 3 viên crystal còn lại bị vỡ tan, các thế giới hòa lại làm một. Họ phát hiện ra rằng hắn đang tìm kiếm sức mạnh của Void, đang bị phong ấn tại Khe núi Interdimensional. Phong ấn này được giữ bởi sự chia cắt các thế giới. Exdeath đã nhận được nguồn sức mạng này, hắn dùng nó để đi giữa các thế giới, phá hủy các thành phố. Lenna bị bắt vào trong Void khi Lâu đài Tycoon bị nuốt chửng. Ghido bảo nhóm phải tìm được 4 phiến đã để lấy được 12 vũ khí từng được dùng chiến đống chống lại Enuo, một kẻ từng có ý định chiếm Void.

    Nhóm lần lượt tìm được các phiến đá và qua được niêm phong vào chỗ cất vũ khí. Exdeath lúc đó đã gửi những quái vật trong Khe núi Interdimensional, được mệnh danh là Ác quỷ Khe núi đuổi theo họ. Ác quỷ đầu tiên, Melusine, định ám vào Lenna nhưng đã bị trục xuất ra khi Hiryuu của Lâu đài Tycoon tới. Nhóm sau đó vào được Khe núi Interdimensional, nơi Exdeath thu nhận được sức mạnh Void, hiện nguyên hình của hắn là một cái cây. Cả nhóm sống sót nhờ sự trợ giúp của 4 Warrior of Dawn cùng Vua Tycoon, chạm trán Exdeath. Giữa trận chiến, Exdeath bị Void chiếm lĩnh trở thành Neo Exdeath, âm mưu phá hủy tất cả mọi thứ, kể cả bản thân hắn. Nhưng nhóm nhân vật chính đánh bại được hắn.

    Có khá nhiều kết thúc game tùy thuộc vào việc còn bao nhiêu thành viên sống sót sau khi Neo Exdeath bị đánh bại. Cid nhận được lá thư từ một thành viên trong nhóm kể về những chuyện sẽ xảy ra trong tương lai. Nếu tất cả đều còn sống, Krile sẽ tới thăm Cây Thần và khóc thương cho ông của cô đến khi các thành viên khác động viên và nhắc nhở cô về nhiệm vụ bảo vệ crystal. Nếu như có ai đó trong nhóm chết, họ sẽ không thể trở về nhà. Người sống sót sẽ tới Cây Thần và biết được những ai hi sinh giờ đã sống lại. Họ cùng nhau bảo vệ những viên crystal để chúng không bao giờ bị vỡ nữa.

    Quá trình phát triển

    Bản gốc trên Super Famicom của Final Fantasy V không bao giờ được phát hành ở Bắc Mỹ. Một thành viên dịch, Ted Woolsey giải thích việc này trong một buổi phỏng vấn năm 1994 như sau: “Nó quá khó hiểu với gamer bình thường”. Một vài kế hoạch đã được lên để phát hành game năm 1995 dưới tựa Final Fantasy Extreme, nhắm tới những gamer nhiều kinh nghiệm và thích cách xây dựng nhân vật phức tạp. Không biết vì lí do gì mà Final Fantasy Extreme không được thực hiện.

    [​IMG]
    Final Fantasy V gốc và fan dịch

    Năm 1997, studio game Top Dog được Square thuê để chuyển thể bản gốc trên Super Famicon sang máy PC chạy hệ điều hành Microsoft Windows, phát hành cho Bắc Mỹ. Dù một phần lớn game đã được hoàn tất nhưng do những vấn đề về truyền thông giữa Top Dog và chi nhánh Square Nhật Bản cùng Mỹ đã khiến dự án bị hủy bỏ. Cùng năm đó, một bản dịch tiếng Anh do fan làm sử dụng cho ROM Final Fantasy V được tung ra trên Internet bởi RPGe và được đón nhận nồng nhiệt. Tới năm 1999, đây là bản tiếng Anh được biết đến rộng rãi nhất của game.

    Năm 1999, một bộ sưu tập trên PlayStation mang tên Final Fantasy Anthology được phát hành, bao gồm có Final Fantasy V và phiên bản không chính thức Final Fantasy VI. Một vài tên gọi bị thay đổi. Năm 2002, phiên bản này của game được phát hành cho châu Âu và châu Úc (cùng với Final Fantasy IV). Nhiều fan không hài lòng với chất lượng dịch lời thoại, đặc biệt là cách nói rất cướp biển của Faris, không có trong bản gốc. Khi chơi trên PlayStation 2, đồ họa có thể bị lỗi trong màn hình save nhưng được phục hồi khi ở ngoài world map. Lỗi nỳ khiến game bị crash khi chơi trên PlayStation 3. Tuy nhiên vấn đề này không bị mắc phải trong bản PAL của Final Fantasy Anthology

    Final Fantasy V Advance

    [​IMG]

    Một phiên bản chuyển thể của Final Fantasy V cho máy cầm tay đã được Square tính toán đến vào đầu năm 2001. Tuy nhiên, dự án này đã thất bại do hệ máy định sử dụng là WonderSwan Color không đủ mạnh để có thể chạy game, và Nintendo không cho phép Square phát triển trò chơi cho máy Gameboy Advance như mong muốn của Sakaguchi.

    Những năm sau, khi quan hệ giữa Square (nay là Square Enix) với Nintendo được cải thiện, trò chơi đã được chuyển thành công sang Gameboy Advance với tên gọi Final Fantasy V Advance, phát hành tại Mỹ ngày 6 tháng 11 năm 2006.

    Bên cạnh chỉnh sửa về đồ họa và dịch lời thoại, đã có 4 Job mới, một bestiary, chức năng quick save, trình chơi nhạc và một dungeon gồm 30 tầng được thêm vào. Không như bản chuyển thể của Final Fantasy IV, một vài lỗi của Final Fantasy V đã được sửa. Đã không còn hiện tượng giật hình và gợn sóng trên màn ảnh.

    Một số thông tin thêm


    - Trong Final Fantasy I&II: Dawn of Souls, những con trùm Atomos, Gilgamesh, Shinryu và Omega đã xuất hiện trong dungeon phụ Lifespring Grotto.
    - Trong Final Fantasy IV: The After Years, bốn con trùm trên cũng xuất hiện là kẻ canh giữ cho những crystal ở True Moon.
    - Final Fantasy V cùng Final Fantasy VI là 2 bản Final Fantasy duy nhất thời Nintendo chưa có bản remake (khác với bản chuyển thể)[/SPOIL]
     
  6. NavaRose

    NavaRose Legend of Zelda Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    8/2/06
    Bài viết:
    1,137
    Nơi ở:
    Midgar City
    [​IMG]

    Tên game: Final Fantasy XIV (ファイナルファンタジーXIV - Fainaru Fantajī Fōtīn)

    [​IMG]

    Dịch và chỉnh sửa: NavaRose
    Nguồn: http://finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_XIV
    Bài viết trên Wiki: http://vi.finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_XIV
    Bài viết này là bài viết nói về một game chưa được phát hành. Vì thế, một số thông tin được cung cấp trong này có thể không chính xác hoặc bị thay đổi sau này.

    [spoil]
    Cốt Truyện

    Final Fantasy XIV, còn được gọi là Final Fantasy XIV Online, sẽ là đưa con thứ mười bốn của dòng game Final Fantasy, game đã được tiết lộ lần đầu tiên tại hội chợ E3 năm 2009, đây là game thể loại MMORPG thứ hai trong các phiên bản game chính, sau Final Fantasy XI. Trong tương lai, game được giới thiệu là sẽ phát hành trên hệ máy PlayStation 3 và Windows (PC).
    Xã hội trong Final Fantasy XIV có nền khoa học và công nghệ tiến bộ hơn là Vana'diel trong Final Fantasy XI. Ví dụ như, người chơi có thể tham gia các trận chiến nảy lửa trên những chiếc airships.
    Game sẽ được phát hành rộng rãi trên toàn cầu bao gồm bốn ngôn ngữ: tiếng Anh, Nhật, Đức, và Pháp. Square-Enix đã cho phép mọi người đăng ký tài khoản để chơi bản close beta tại đây.

    Bối cảnh game diễn ra tại một vùng đất được gòi là Eorzea, Bao gồm lục địa Aldenard và những hòn đảo lớn nhỏ bao quanh, tất cả đều thuộc về hành tinh Hydaelyn. Eorzea bào gồm nhiều thành phố riêng biệt: hải cảng náo nhiệt và là nơi trú ẩn của những tên hải tặc Limsa Lominsa; thành phố giàu có ở sa mạc Ul'dah; thành phố Gridania nằm sâu bên trong rừng rậm; và pháo đài trên đỉnh núi có tên là Ishgard.
    Eorzea là nơi cư ngụ đầu tiên của các vị thần và nữ thần, lúc này cũng có một số bộ lạc sinh sống rãi rác ở đây, họ được gọi là the Twelve. Các vị thần đã ban phước và phù hộ các các bộ lạc, nhưng các bộ lạc lại bắt đầu chống lại nhau, gây ra chiến tranh khiến cho Eorzea bị chia rẽ ra nhiều phần.
    Mười lăm năm trước khi diễn ra sự kiện trong game, các chiến binh mặc giáp sắt đã xâm nhập vào Eorzea với những vũ khí hùng mạnh và những cổ Airship khổng lồ. Lực lương quân đội đến từ Garlean Empire, và không lâu sau đó, thành phố hùng mạnh nhất trong sáu thành phố lớn là Ala Mihgo bị sụp đổ trước sự xâm lăng của chúng. Những thành phố còn lại phải cùng nhau hợp sức để bảo vệ nhau, nhưng rồi sự liên kết đó cũng nhanh chóng sụp đổ. Thời kỳ mới của Eorzea được bắt đầu, đó là thời kỳ "Age of Calm", họ ngày đêm khôi phục lại các thành phố đổ nát trong chiến tranh, ngày đêm thao luyện quân sỹ. Trước đó, các thành phố này đã gửi đi những do thám vào cuộc chiến để thu thập tin tức, nhưng bây giờ, họ bị bỏ rơi, thất nghiệp và nghèo đói, vất vã. Để giúp họ có công ăn việc làm ổn định và sử dụng năng lực của họ đúng chỗ, ko bị lãng phí, lãnh đạo các thành phố đã lập ra một tổ chức để sử dụng năng lực của họ một cách hợp lý.

    Nhân Vật Điều Khiển


    Nhóm sản xuất đã công bố rằng cốt truyện game lần này sẽ không liên quan gì đến Final Fantasy XI, nhưng trong các đoạn trailer và các bức vẽ artwork thì có thể nhận thấy năm chủng tộc trong Final Fantasy XIV có nét gì đó tương đồng với các nhân vật trong Final Fantasy XI.
    Mỗi tộc người đều có một cái tên mới và sự xuất hiện không có gì khác nhau giữa họ. mỗi tộc người cũng chia ra làm hai bè phái. Lalafell có nét gì đó tương đồng với Tarutaru, nhưng mũi của họ nhỏ hơn và tai nhọn hơn. Roegadyn thì giống như Galka, họ không có đuôi. Miqo'te thì rất giống Mithra. Còn tộc người thì có tên là Hyur, trong khi tộc Elvaan thì có mối liên hệ mật thiết với Elezen.

    [​IMG]

    Khi game thủ tạo nhân vật, ngoài việc chọn chủng tộc và chọn giới tính nhân vật, họ còn có thể tự ý tạo ra diện mạo cho nhân vật, bao gồm đầu, màu da, kiểu tóc, và màu tóc.
    Gameplay

    Final Fantasy XIV sẽ là một game MMORPG có nhiều nét tương đồng với Final Fantasy XI, nhưng game sẽ không sử dụng hệ thống điểm kinh nghiệm và cấp độ, thay vào đó là game sẽ cho ra mắt một hệ thống mới phát triển cho phép người chơi tự do hơn trong việc lựa chọn nhiệm vụ. trọng tâm của Final Fantasy XIV là phát triển xây dựng nhân vật, và sẽ mở rộng hệ thống Job của Final Fantasy XI, cốt truyện cũng được giới thiệu là đặc sắc với nhiều tình tiết gây cấn, hệ thống nhiệm vụ rất phức tạp và đa dạng. Game được mong chờ là sẽ rất hấp dẫn vì độ khó của nó, đã số chức năng cũ trong Final Fantasy XI vẫn sẽ hiện diện hoặc ít nhất cũng sẽ được cải tiến. Game sẽ không tích hợp tùy chọn cho phép chat qua bằng giọng nói, chat bằng chữ cũng sẽ bị hạn chế.

    Hệ Thống Trang Bị

    Game có bốn thiên hướng, bốn thiên hướng đó chia ra làm nhiều class. Mỗi class có một loại vũ khí riêng biệt, thay đổi class cũng đơn giản như là thay đổi vũ khí, đó là nét đặc trưng của Hệ Thống Trang Bị.
    Disciples of War:

    • Archer (Cung)
    • Gladiator (Sử dụng kiếm một tay với khiên hoặc kiếm hai tay)
    • Lancer (Thương và giáo)
    • Marauder (Rìu)
    • Pugilist (Găng tay hoặc móng vuốt)
    Disciples of Magic:

    • Conjurer (Đũa thần hoạc gây gỗ)
    • Thaumaturge (Quyền trượng hoặc gậy phép)
    Disciples of Land:

    • Fisher (Cần câu cá)
    • Botanist (Chiếc rìu nhỏ)
    • Miner (Chiếc cuốc)
    Disciples of Hand:

    • Alchemist (Chiếc nồi)
    • Armorer (Cây búa)
    • Blacksmith (Búa rèn)
    • Carpenter (Chiếc cưa)
    • Culinarian (Cái chảo)
    • Goldsmith (Búa chạm khắc)
    • Leatherworker (Dao)
    • Weaver (Cây kim)
    Guilds

    Trong khi chơi game, người chơi phải tham gia vào các guild để nhận được Cấp độ Guild từ đó mới kích hoạt những lá bài chứa nhiệm vụ mà người chơi cần thực hiện. Các nhiệm yêu cầu người chơi phải một con thú nào đó để thu thập vật phẩm hoặc được sai đi sứ để đàm phán, thương lượng với kẻ thù. Cấp độ guild có thể tự bạn sẽ hoàn thành hoặc hoàn thành cùng với party gồm những người chơi khác. Ngươi chơi có thể thực hiện được cùng lúc nhiều nhiệm vụ với các cấp độ khác nhau.
    Aetheryte


    Trong game, nhân vật do người chơi điều khiển có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác một cách nhanh chóng bằng Aetherytes, đó là những mãnh vỡ từ những viên Crystal được kết tinh và được chế biến từ những cổ máy thời xa xưa. Những viên Crystal này hoạt động giống như là nhưng cổng dịch chuyển, nhưng sử dụng chúng nhiều qua đôi khi sẽ gây phản tác dụng...
    Sản Xuất


    Tên gốc của engine làm game này là Rapture, nó được đề cập lần đầu tiên vào tháng 8 năm 2005, tuy nhiên, một vài thông tin chi tiết được công bố từ sau thời điểm đó đến khoảng năm 2009 ( xem video) khiến các fan quan tâm đến việc đến việc phiên bản này sẽ phát hành trên hệ máy nào (Xbox 360 là hệ máy được chú ý nhất vào thời đó), sự thật là game được phát triển trên engine Crystal Tools. Hiromichi Tanaka gần đây đã công khai tuyên bố rằng vào thời điểm này Xbox 360 không phải là hệ máy mà họ muốn khai thác. Mặc dù vậy, ông cũng có tiết lộ rằng Square vẫn đang làm việc và đàm phán với Microsoft.
    Final Fantasy XIV được chỉ đạo sản xuẩn bởi Nobuaki Komoto với phần thực hiện các bản vẽ và thiết kế của Akihiko Yoshida. Phần âm nhạc đánh dấu sự trở lại của đại thiên tài Nobuo Uematsu, đây là lần tiên ông trở lại trong vai trò người được toàn quyền sáng tác nhạc cho loạt game Final Fantasy kể từ Final Fantasy IX, ông đã từng là người sáng tác nhạc nổi tiếng với các bài hát trở thành bất hủ của dòng game Final Fantasy, sau đó ông đa rời khỏi Square Enix vào năm 2003 để làm một nhạc sĩ tự do. Và giờ ông đã trở lại.
    [/spoil]
     

    Các file đính kèm:

  7. king_dragontb

    king_dragontb ✯Final Fantasy Collector✯ Moderator Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    3/1/06
    Bài viết:
    4,167
    Nơi ở:
    Grand Line
    [​IMG]

    Tên game: Final Fantasy XI (ファイナルファンタジXI ーFainaru Fantajī XI)

    [​IMG]

    Biên dịch: king_dragontb
    Chỉnh sửa: king_dragontb
    Nguồn:
    http://finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_XI

    [SPOIL]Final Fantasy XI, hay còn gọi là Final Fantasy XI Online là game nhập vai trực tuyến đầu tiên của thương hiệu Final Fantasy (MMORPG - Massively Multiplayer Online RPG). Final Fantasy XI là game MMORPG đa hệ đầu tiên trên thế giới, hiện tại đã có cho Windows, PlayStation 2 và Xbox 360.

    Giống với các game nhập vai trực tuyến bình thường, Final Fantasy XI khác biệt với các phần trước trong series, khi mà bạn không phải anh hùng duy nhất. Thay vào đó, mỗi người chơi sẽ tạo cho mình một nhân vật và du hành trong thế giới Vana’diel cùng với những người khác, lên level, khám phá, hoàn thành nhiệm vụ, và rất nhiều nữa. Việc luyện level đòi hỏi một nhóm người cùng làm việc, gọi là “Party”, tận dụng kĩ năng của chính mình để giúp đánh bại đối thủ và nhận điểm kinh nghiệm. Battle tiến hành theo thời gian thực, nâng hệ thống ATB lên một tầm cao mới. Hệ thống này được sử dụng lại gần như tương tự trong Final Fantasy XII.

    Hiện tại đang có 500.000 người chơi Final Fantasy XI, sử dụng trên 2 triệu nhân vật. Với những phần update và các bản mở rộng, Vana’diel đã không còn là một thế giới tĩnh nữa mà đang phát triển cùng dòng thời gian.

    Gameplay

    Cơ bản

    Người chơi bắt đầu bằng việc tạo cho mình một nhân vật với nhiều tùy chọn. Không như những game trước trong series, Final Fantasy XI cho phép bạn lựa chọn chủng tộc, giới tính, nét mặt, màu tóc và chiều cao cho nhân vật. Sau đó người chơi chọn một trong 3 thành phố để cư trú và phục vụ - Cộng hòa Bastok, Vương quốc Sand’Oria hoặc Liên bang Windurst. Cuộc sống của bạn tại Vana’diel bắt đầu.
    Cốt truyện chính của Final Fantasy XI diễn tiến qua các Nhiệm vụ, được cung cấp tại các thành bang và một vài NPC. Ngoài việc hé mở cốt truyện, Nhiệm vụ còn cung cấp khá nhiều các phần thưởng, như Item, Cấp bậc và đưa người chơi đến những khu vực mới. NPC cũng đưa ra các Quest, những hoạt động không liên quan đến cốt truyện chính. So với Nhiệm vụ, Quest thường ngắn hơn và số lượng nhiều hơn. Quest bổ sung sự thú vị cho thế giới trong game, đem lại nhiều phần thưởng, đặc biệt là Danh tiếng, một chỉ số khiến cho NPC có những phản ứng khác nhau với nhân vật của người chơi.

    Các trận chiến trong Final Fantasy XI diễn ra ngay trong thế giới game, không phải load thêm màn hình mới như thường thấy trong series. Thay vào đó, quái vật đi lại trên các vùng đất, bạn có thể thoải mái tấn công. Một vài con có thể tấn công bạn trước, gợi nhớ tới “random battle” - trận chiến ngẫu nhiên quen thuộc. Final Fantasy sử dụng hệ thống “Claim” và “Enmity” có liên quan tới các loại quái. Khi một hành động tấn công được đưa ra với 1 đối thủ, nó sẽ trở thành một sự “khẳng định” cho những hành động của nhân vật, ngăn chặn bất cứ ai đi qua xen vào (tránh tình trạng KS). Người khác có thể giúp đỡ nếu cùng trong Party. Party cho phép một số người chơi được lựa chọn có thể nhóm lại và cùng nhau hạ đối thủ, điều này bắt gặp ở hầu hết game nhập vai trực tuyến.

    Hệ thống Job

    Final Fantasy XI sử dụng kiểu thay đổi Job gần giống Final Fantasy III, hiện tại đã có 20 Job có thể dùng. 6 Job thông thường cho phép chọn lựa khi bắt đầu game. Khi các Job này đạt đến level 30, 40 các Job cao hơn sẽ xuất hiện khi hoàn thành những Quest nhất định

    [​IMG]

    Mỗi Job có các kĩ năng riêng biệt, được kích hoạt bởi người chơi nếu muốn thi triển, tốn một lượng thời gian nhất định, và mất thời gian phục hồi để có thể tiếp tục sử dụng. Traits là yếu tố luôn có với mỗi Job, giúp các kĩ năng thụ động luôn có tác dụng. Thêm vào đó, mỗi Job có kĩ năng đặc biệt riêng, cho phép thi triển những phép cực mạnh trợ giúp trong tình huống khó khăn. Người chơi phải cân nhắc kĩ trước khi dùng sức mạnh đặc biệt này vì phải 2 giờ sau mới có thể dùng lại. Job có thể thay đổi bất cứ lúc nào trong Mog House.

    Nét độc đáo trong hệ thống Job của Final Fantasy XI là “Job hỗ trợ”. Hệ thống này cho phép người chơi thêm Abilities, Traits, và Spells của Job đã chọn khác cho nhân vật của mình khi đạt được một nửa số level của Job hiện tại. Ví dụ, một Warrior level 20 có thể chọn Ninja là Job hỗ trợ. Điều này cho phép họ sử dụng tất cả các Abilities, Traits, Spells của Ninja level 10 trong khi vẫn là Warrior. Việc pha trộn các Job này là điều chưa từng có trong series Final Fantasy.

    Lên level và tạo Party

    Giống như các game Final Fantasy trước, việc lên level trong Final Fantasy XI dựa trên điểm kinh nghiệm, có thể kiếm bằng nhiều cách - tiêu diệt đối thủ, hoàn thành Quest, kết thúc Nhiệm vụ, Campaign Battles và nhiều hoạt động khác. Cách hiệu quả nhất để có điểm kinh nghiệm lên level là tạo Party. Party là một nhóm tối đa 6 người cùng nhau làm việc với 1 mục đích là hạ quái vật lấy EXP. Party cho phép mỗi Job trở nên vượt trội hơn, giết được quái vật khó nhanh hơn, kiếm được nhiều EXP hơn là khi solo.Ví dụ, một White Mage vượt trội về khả năng giữ cho các nhân vật khác sống sót tuy nhiên lại có sức tấn công vật lý yếu và không thể phòng vệ. Sẽ rất khó để họ giết được quái mạnh. Tuy nhiên nếu White Mage Party với Paladin có lợi thế về phòng thủ vật lý và tái tạo Enmity, hay với Monk có damage cao. 3 loại Job này kết hợp với nhau sẽ tạo nên sức mạnh để hạ những đối thủ mạnh, nhận được điểm kinh nghiệm cao.Giết quái vật khó sẽ mang lại cho người chơi điểm thưởng, gọi là Chain.

    [​IMG]

    Khi đang trong Party, mọi hành động tấn công của quái vật được quyết định qua hệ thống “Enmity”. Hầu hết hành động diễn ra trong battle đều sinh Enmity, gần giống như “Căm thù”; ai có nhiều Enmity nhất sẽ thu hút sự chú ý của quái vật rồi sau đó bị tấn công. Chìa khóa thành công của Party là quản lí tốt Enmity để bảo vệ các thành viên dễ bị tổn thương. Có rất nhiều cách để người chơi làm được việc này. Điều cốt yếu là phải giữ cho quái vật mạnh tránh xa những nhân vật phòng thủ yếu như Black hay White Mage. Người chơi phải lựa chọn hành động và suy nghĩ xem nó có tác dụng như thế nào đến Enmity của họ cũng như cả nhóm. Vì vậy có một vài Job nhất định được giao nhiệm vụ tạo ra nhiều Enmity nhất có thể để thu hút chú ý của quái vật.

    Level cao nhất trong Final Fantasy XI là 75 nhưng từ tháng 6 năm 2010 level tối đa sẽ tăng lên 99. Khi đạt muawcs này, người chơi có thể chuyển điểm kinh nghiệm EXP nhận được sang điểm giới hạn Limit Point. Limit Point dùng để tùy biến nhân vật, mua Ability, Trait và Stat mới.

    Weapon Skills và Magic Bursts

    Hiện thân của Limit Break trong Final Fantasy XI là các Weapon Skill. Tấn công vật lí giúp người chơi làm đầy thanh Tactical Points, tối đa đạt tới 300%. Khi con số vượt quá 100% thì có thể được sử dụng để chuyển thành Weapon Skill. Hiệu ứng của các skill này khá nhiều, tùy thuộc vào Job, vũ khí trang bị, thanh Tactical Points tới đâu và độ phù hợp của người chơi với vũ khí. Nếu đi cùng người khác, người chơi có thể dùng Weapon Skill để tạo ra Skillchain. Một Skillchain sẽ gây ra thêm nhiều sát thương hơn sau khi một loạt Weapon Skill được dùng. Dựa trên đó, Magic được dùng trong Skillchain tăng cường được độ sát thương, gọi là Magic Burst. Để tạo ra được Skillchain và Magic Burst tốt nhất có thể, người chơi phải cùng nhau hợp tác, tập trung vào thời gian và hành động của từng người.

    Thế giới

    Final Fantasy XI diễn ra trong thế giới Vana’diel, một hành tinh khá đa dạng về vùng miền, từ những sa mạc nóng bỏng đến miền băng giá lạnh lẽo. Dân cư Vana’diel trải rộng từ những chủng tộc văn minh và Người thú tới quái vật đơn giản.

    [​IMG]

    Truyền thuyết kể lại rằng Vana’diel được tạo ra để làm sân chơi cho các vị thần, tượng trưng cho một Crystal vĩ đại và có tri giác. Qua hàng thiên niên kỉ, thần tiên đã vui chơi ở đây đến khi họ chìm sâu vào một giấc ngủ. Trong giấc ngủ này, con cái của các vị thần đã lớn lên và phát triển tại Vana’diel, tạo ra vàng từ đá, du hành khắp nơi, xây dựng nên những thành phố hùng tráng và sản sinh ra nhiều vùng thảo nguyên khắp thế giới.

    Cuối cùng, lũ trẻ cũng muốn gia nhập cùng cha mẹ, xây dựng một con đường tới Cổng thánh vào Thiên đàng. Tức giận với hành động láo xược này, Người gác cổng đã trừng phạt chúng, ném các thành phố ra giữa đại dương.

    Sau đó không lâu, Thánh Altana thức tính và chứng kiễn sự đổ nát của Vana’diel. Cảm nhận được thứ cảm xúc mà chưa vị thần nào có trước đây - nỗi buồn - Altana đã rơi 5 giọt nước mắt. Chúng rơi xuống mặt đất, đem lại sự sống cho 5 chủng tộc của Vana’diel.

    Tuy nhiên vị thần bóng tối Promathia đã chức kiến việc này, chỉ trích sự yếu đuối của Altana và sự sống sinh ra từ nó. Promathia nguyền rủa 5 chủng tộc trong sự xung đột vĩnh cửu bằng cách khơi dậy những suy nghĩ đen tối nhất. Tính thờ ơ của Humes, tính kiêu ngạo của Elvaan, sự cuồng bạo của Galka, sự hèn nhát của Tarutaru, và tính đố kị của Mithra. Hắn tạo ra những con quái vật kinh khủng, gieo giắc khắp nơi, điều khiển chúng muôn đời chống lại dân cư Vana’diel và chiếm đoạt linh hồn họ. Từ đó không bao giờ có ai dám mở Cổng thánh nữa.

    Chủng tộc

    Có 5 chủng tộc người chơi có thể sử dụng trong thế giới Vana’diel, đó là:

    [​IMG]
    Từ trái qua phải: Galka, Mithra, Hume, Elvaan, và TaruTaru

    Hume
    Tộc Hume xây dựng thành phố của mình, Cộng hòa Bastok trên vùng đất hoang Gustaberg. Họ có kĩ năng khá cân bằng trên mọi địa hình và có diện mạo đơn giản so với các tộc khác. Chính khả năng thích nghi đã giúp tộc Hume sống được ở khắp các vùng đất và có số lượng lớn nhất trên Vana’diel. Hume phải chịu những tội lỗi vì tính thờ ơ của mình.

    Galka
    Là loài mạnh mẽ nhất, tộc Galka có thân hình cực kì cao lớn, đồ sộ. Thành phố quê hương họ bị phá hủy hàng trăm năm trước bởi Antican, khiến dân Galka phải đi lánh nạn. Rất nhiều người đến Bastok sống cùng Hume nhưng bị coi là tầng lớp dưới. Galka khác biệt hẳn với các tộc khác vì họ không có giới tính, tái sinh bằng cách đầu thai vào kiếp mới. Họ có chỉ số Vitality và HP cao nhưng MP thấp nhất trong số 5 loài. Tội lỗi của họ là sự cuồng bạo.

    Elvaan
    Sống tại Vương quốc Sand’Oria, loài Elvaan được nhận biết qua chiều cao, dáng người thon thả và đôi ta lớn, nhọn hoắt. Nhiều Elvaan rất sùng đạo, luôn theo đuổi 1 niềm tin bất diệt được phản ánh qua cuộc sống hàng ngày của họ. Tộc này có chỉ số Streng và Mind cao, tuy nhiên Intelligence lại thấp. Tội lỗi của họ là sự kiêu ngạo.

    Mithra
    Tộc người trông giống loài mèo Mithra có sự mất cân bằng về giới tính, với tỉ lệ nữ cao hơn nam. Vì thế chỉ có phụ nữ mới có quyền rời khỏi vùng đất quê hương an toàn để đi du hành Vana’diel. Họ có chỉ số Agility và Dexterity khá hoàn hảo. Tội lỗi của Mithras là tính đố kị.

    Tarutaru
    Tuổi tác của tộc tí hon Tarutaru không phản ánh qua kích cỡ của họ. Sống tại Liên bang Windurst, những người Tarutaru nổi tiếng vì tài khám phá và phát minh phép thuật, là thứ mà họ nổi trội nhất, vì họ có chỉ số Untlligence cao. Nhưng thân hình nhỏ bé khiến cho Taru có Strength thấp nhất so với các tộc khác. Tội lỗi của Tarutaru là sự hèn nhát.

    Cốt truyện

    Lịch sử hiện tại

    20 năm trước, Đại chiến Crystal diễn ra trên Vana’diel. Chúa tể Bóng đêm triệu tập tất cả Người thú và tiến hành cuộc chiến, mưu đồ tiêu diệt năm chủng tộc của Altana, gây hỗn loạn cho vùng đất này.

    [​IMG]
    Quân liên minh tới bảo vệ Tavnazia

    Giai đoạn đầu của cuộc chiến, các quốc gia trên Vana’diel chiến đấu với Người thú một các độc lập nhưng chịu hết thất bại này đến thất bại khác vì sự vượt trội về quân số của kẻ thù. Theo chỉ thị của Archduke Kam'lanaut ở Jeuno, các quốc gia San d’Oria, Bastok, Windurst, và Tavnazia bỏ qua sự hằn thù lịch sử của mình, lập nên Liên minh Altana. Họ bắt đầu chia sẻ thông tin và tài nguyên, họ dần dần phát triển được một chiến dịch giải phóng toàn bộ lục địa.

    [​IMG]
    Một con Behemoth vượt qua tường thành

    Sau 2 năm chiến tranh đẫm máu, Liên minh Altana đánh bại được Chúa tể Bóng đêm và đội quân của hắn. Nhưng cái giá của chiến thắng là rất cao, nhiều thành phố bị phá hủy, người Tavnazia hoàn toàn biến mất khỏi bản đồ. Tổn thất về người lên tới hàng chục hàng.

    Vana’diel đã thay đổi rất nhiều qua 20 năm kể từ cuộc chiến đó, hướng tới một thời kì yên bình dài lâu. Liên minh Altana vẫn tồn tại giữa các quốc gia và bước sang một giai đoạn mới. Nhiều nơi được xây dựng lại và có cuộc sống bình thường như trước khi có cuộc Đại chiến, trao đổi buôn bán và đường bay cho Airship giữa các quốc gia đơn lẻ dần được hình thành. Các thành phố tuy chưa hồi phục thực sự sau tổn thất to lớn về người, sau này phụ thuộc vào nhưng nhà thàm hiểm làm nhiệm vụ của mình. Họ có nhiệm vụ duy trì nền hòa bình mong manh của vùng đất vì có tin đồn rằng bóng đêm sẽ một lần nữa bao trùm lên nơi đây.

    Mở rộng

    Các phiên bản mở rộng

    Final Fantasy XI hiện tại có 4 bản mở rộng. Mỗi bản lại thêm một cốt truyện mới cho người chơi hoàn thành. Ngoài ra còn có những khu vực mới để khám phá, tìm vũ khí, áo giáp, trang bị, quái vật và cả những công thức mới trong gameplay (ví dụ như truy kích, chiến dịch hay vây hãm).

    Final Fantasy XI: Rise of the Zilart
    Bắt đầu ngay sau khi câu chuyện trong Final Fantasy XI gốc kết thúc, người chơi phát hiện ra rằng còn có 2 người trong chủng tộc Zilart sống sót sau thảm họa diệt chủng. Người chơi sẽ phải chiến đấu để tìm ra sự thật đằng sau cuộc Đại chiến Crystal và ngăn không cho Cổng Thánh được mở ra dẫn đến sự hủy diệt của Vana’diel.

    Final Fantasy XI: Chains of Promathia
    Sau khi khám phá được lối vào đại lục địa cổ đại Crags ở vùng đất trung tâm, một sự kiện được gọi là “The Emtiness” khiến cho toàn thể Vana’diel lo lắng. Một đứa trẻ xanh xao bí ẩn được cho là nguyên nhân của hoạt động lạ. Liệu câu chuyện cổ về 2 vị thần song sinh Promathia có liên quan gì không?

    Final Fantasy XI: Treasures of Aht Urhgan
    Đế chế Aht Urhgan bỗng nhiên mở cửa đường biên giới với vùng Middle Lands sau nhiều năm tự cách li với thế giới. Lo lắng về sức mạnh mới nổi này, lãnh đạo của các thành phố lập tức gửi một đại diện đến đánh giá tình hình. Bạn là người được chọn để tìm ra ý định thực sự của Đế chế, giải mãi bí mật về những báu vật ban tặng sự sông Astral Candescence, Dark Riders và Dauntless Pirates.

    Final Fantasy XI: Wings of the Goddess
    Hệ thống hang động Maws xuất hiện trên thế giới đã được phát hiện có khả năng dịch chuyển không gian trong 20 năm trở lại đi, khi Đại chiến Crystal diễn ra. Người chơi được giới thiệu với Cait Sith, người muốn có sự giúp đỡ trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh. Việc làm này sẽ ảnh hưởng gì tới tương lai đây?

    Add-Ons

    Bên cạnh các bản mở rộng còn có các chương phụ thêm (add-on). Không như phần mở rộng đầy đủ, mỗi phần add-on được công bố hoàn chỉnh trong mỗi bản cập nhật. 3 phần add-on đầu tiên tập trung vào cốt truyện phụ trong khi 3 phần Abyssea sắp phát hành lại đi sâu vào nội dung về những trận đánh cấp độ cao.

    Final Fantasy XI: A Crystalline Prophecy: Ode to Life Bestowing
    Một Crystal bí ẩn xuất hiện trên Vana’diel, báo hiệu sự tận diệt của thế giới. Người chơi phải tìm nguyên nhân vì sao crystal này xuất hiện, và cậu bé được gọi với tên Aldo là ai…

    Final Fantasy XI: A Moogle Kupo d'Etat: Evil in Small Doses
    Cốt truyện bắt đầu khá đơn giản khi một trận mưa lớn vô tình rơi vào khu nhà đổ nát của Moggle. Tuy nhiên sự kiện nhỏ nhặt này lại khởi nguồn cho một cơn ác mộng chưa từng có trong lịch sử loài Moggle.

    Final Fantasy XI: A Shantotto Ascension: The Legend Torn, Her Empire Born
    Sau một thời gian vắng mặt không có lí do, Giáo sư Shantotto trở về Windurst, gây shock với học viên của mình bằng thái độ cư xử rất thô lỗ. Shantotto luôn tự cho mình là người đứng đầu của một vương quốc. Người chơi phải tìm hiểu ngọn nguồn của sự thay đổi này.

    Final Fantasy XI: Vision of Abyssea
    Một trong ba add-on mới cho Final Fantasy XI phát hành tháng 6 năm 2010.

    Final Fantasy XI: Scars of Abyssea
    Một trong ba add-on mới cho Final Fantasy XI phát hành tháng 9 năm 2010.

    Final Fantasy XI: Heroes of Abyssea
    Một trong ba add-on mới cho Final Fantasy XI phát hành tháng 12 năm 2010.

    Âm nhạc

    Final Fantasy XI hiện đang là game có số soundtrack lớn nhất trong series Final Fantasy, số album đã phát hành bao gồm tới 200 bài, kéo dài hơn 11 giờ nghe. Âm nhạc trong game được cập nhật hàng năm. Những cập nhật mới nhất đưa ra cùng lúc với các bản mở rộng, mỗi lần thêm khoảng 25 bài.

    [​IMG]
    Final Fantasy XI Original Soundtrack Premium Box.

    Phiên bản đã phát hành của Final Fantasy XI trình diễn âm nhạc của Nobuo Uematsu, Kumi Tanioka và Naoshi Mizuta. Nhạc nèn chính, Distant World, xuất hiện dưới khá nhiều dạng trong suốt quá trính chơi game, đôi khi có lời, đáng kể nhất là ở cuối của bản mở rộng thứ hai Chain of Promathia. Memoro de la Stono là nhạc chủ đề thứ hai của Final Fantasy XI, nghe giống như một bài thánh ca hòa âm, lời bài hát được viết bằng tiếng Esperanto (ngôn ngữ do nhà ngữ văn Ba Lan Ludwik Lejzer Zamenhof phát minh năm 1887). Theo Uematsu, lời bài hát tượng trưng cho hi vọng của đội ngũ phát triển rằng game này sẽ đóng góp vào việc đối thoại và hợp tác giữa các nền văn hóa.
    Sau phiên bản đầu tiên, âm nhạc của Final Fantasy XI gần đây được giao cho Naoshi Mizuta, ngoại trừ Chocobo Theme là sự trở lại của Nobuo.

    Soundtrack của Final Fantasy XI còn có những bài nhạc không dừng trong game. Một vài bản piano collection được nhận ra và The Star Onions, ban nhạc gồm các thành viên Naoshi Mizuta, Kumi Tanioka và Hidenori Iwasaki đã phát hành 2 album nhạc về Final Fantasy XI.

    Quá trình phát triển

    Ý tưởng ban đầu cho Final Fantasy XI được đề xướng bởi Hironobu Sakaguchi sau khi ông bị ấn tượng bởi game MMORPG phương Tây là EverQuest. Final Fantasy XI được công bố lần đầu tiên tại Japanese Square Millennium Event năm 2000, cùng với Final Fantasy X. Hiromichi Tanaka, nhà sản xuất của Final Fantasy XI cùng các bản mở rộng mô tả bản XI là “có tính Final Fantasy nhất trong tất cả các phần”, được đưa vào rất nhiều yếu tố chưa bao giờ có trong các tựa game trước vì giới hạn về công nghệ. Theo Tanaka, Final Fantasy III có ảnh hưởng nhiều nhất tới game này, có thể nhận ra qua hệ thống Job.

    Một số điều thú vị

    Trong anime “Welcome to the NHK!”, phần trung tâm trong 2 episodes kể về nhân vật chính bị nghiện trò “Ultimate Fantasy”. Game này có nhiều chi tiết giống với Final Fantasy XI. Logo của game giống y hệt với logo của Final Fantasy, các chủng tộc trong game là những biến đổi nhỏ của chủng tộc trong Final Fantasy XI. Avatar của nhân vật chính cũng có kiểu ăn mặc giống một Red Mage.[/SPOIL]
     
  8. NavaRose

    NavaRose Legend of Zelda Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    8/2/06
    Bài viết:
    1,137
    Nơi ở:
    Midgar City
    Final Fantasy VII
    [​IMG]
    Biên dịch: NavaRose
    Chỉnh sửa: NavaRose

    Nguồn: http://finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_VII
    [spoil]
    Final Fantasy VII (ファイナルファンタジーVII Fainaru Fantajī VII) là phiên bản thứ bảy của loạt game Final Fantasy được phát hành vào năm 1997. Lần này được đạo diễn bởi Yoshinori Kitase, viết kịch bản bởi Kitase và Kazushige Nojima, giám đốc sản xuất là Hironobu Sakaguchi. Đây là game đầu tiên trong series Final Fantasy được sản xuất cho hệ máy PlayStation, và là game đầu tiên trong series được chuyển hệ sang nền Windows. Thêm vào đó, đây là game Final Fantasy đầu tiên được chuyển lên thiết kế nhân vật bằng đồ họa 3D, tuy nhiên môi trường đồ họa của bối cảnh vẫn dựng trên không gian 2 chiều (ngoại trừ World Map và cảnh chiến đấu được thiết kế bằng đồ họa 3D Full).
    Final Fantasy VII cũng là game đầu tiên trong series có cốt truyện xuất hiện nhiều cảnh vật hiện đại hơn so với các phiên bản trước đây và các cảnh tương tự như việc đi lên mặt trăng trong Final Fantasy IV, thám hiểm đại dương trong Final Fantasy V, hoặc sử dụng năng lượng từ hơi nước, than, súng ống, Magitek trong Final Fantasy VI.
    Final Fantasy VII là game được yêu thích nhất mọi thời đại, với số lượng bán ra cao kỷ lục (9.9 triệu bản) trong các game thuộc series Final Fantasy và là game đạt doanh thu cao thứ hai dành cho hệ máy PlayStation. Game đã nhận được số điểm là 9.5/10 trên tạp chí GameSpot và 9.6/10 điểm do game thủ bình chọn. Sau khi bản gốc của Final Fantasy VII được phất hành, phiên bản trò chơi trên hệ máy PC và sau này là hệ PlayStation Network cũng được cho ra đời. Và nó trở thành game thể loại nhập vai được quan tâm rộng rãi trên toàn cầu.
    Không giống như Final Fantasy IVFinal Fantasy VI, được đổi số thứ tự phiên bản lại thành IIIII, Theo thứ tự, các phiên bản phát hành tại phương tây (II, III, và V không được phát hành trên toàn thế giới vào thời điểm đó), Final Fantasy VII được giữ lại với số thứ tự là 7 khi phát hành tại đây. Game cũng đã có nhiều phiên bản phụ bao gồm phim ảnh, sách, tranh, game... có tình tiết và nội dung liên quan, giải thích về các sự kiện trước và sau thời điểm diễn ra cốt truyện chính, chúng được gọi là Compilation of Final Fantasy VII.
    Gameplay


    Final Fantasy VII là game nhập vai mà ngươi chơi sẽ điều khiển nhân vật trong một thế giới hết sức rộng lớn. Ban đầu, the player is bị giới hạn đi lại trong thành phố Midgar, nhưng dần dần về sau, nhiều bí ẩn và nhiều vùng đất mới được hé lộ và cho phép người chơi đi vào, theo diễn biến cốt truyện mà bạn đã đi qua bạn sẽ dần có được sự tự hơn trong việc khám phá khắp nơi trên thế giới. Tại một vài điểm nhấn trong cốt truyện, game sẽ bị gián đoạn bởi những phần hoạt cảnh, những diễn biến của cốt truyện.
    Trong những trận đấu kiểu đánh theo lượt, game vẫn sử dụng hệ thống Active Time Battle (ATB) mà ba game trước trong series Final Fantasy đã sử dụng. Không giống như ngững game trước trong series có đến 4-5 nhân vật tham gia vào trận đánh, Final Fantasy VII chỉ cho phép bạn chọn ra ba nhân vật trong nhóm để tham gia vào trận đánh cùng một thời điểm.
    Kỹ năng trong Final Fantasy VII được đưa vào thông qua hệ thống materia, những viên ngọc ma thuật có để được ghép vào các lỗ đặc biệt trên vũ khí (Weapon) và giáp (Armor). Materia cho phép nhân vật được phép sử dụng các loại phép thuật (Magic), những lệnh đặc biệt, và nhiều loại kỹ năng đa dạng khác. Materia ảnh hưởng đến chỉ số của nhân vật, một viên materia có thể cộng thêm hoặc trừ đi một chỉ số nào đó của nhân vật tùy loại materia mà bạn sử dụng, cho nên sử dụng thế nào hợp lý để phụ hợp với loại hình của nhân vật mà bạn xây dựng.



    Một nét đặc biệt được ra mắt trong Final Fantasy VI, "đòn tấn công mãnh liệt" xuất hiện trở lại vào phiển bản này với nét đổi mới, được đổi tên là Limit Break. Mỗi nhân vật đều có một "thanh limit", thanh này sẽ tăng một ít mỗi lần nhân vật đó chịu sát thương trong trận đấu. Khi thanh limit đầy, nhân vật đó sẽ được phép thi triển limit break, đòn tấn công đặc biệt này sẽ gây ra tổng số sát thương cao hơn đòn tấn công thông thường.
    Final Fantasy VII cũng đưa vào trò chơi những con boss phụ cực kỳ khó và mạnh, nhưng con boss này không cần phải đánh bại theo yêu cầu game, nhưng chúng tạo ra cảm giác hứng khởi và thử thách dành cho người chơi. Gần cuối game, sẽ có sự xuất hiện của một loạt những con quái vật cực kỳ mạnh được gọi là Weapons; người chơi buộc phải đối đầu với chúng trong suốt trò chơi ngoại trừ hai con Ruby Weapon và Emerald Weapon, hai con này người chơi có thể chạm trán với chúng nếu muốn hoặc có thể bỏ qua, chúng là những con boss phụ cực kỳ khó khăn; Ruby Weapon là một ví dụ, nó có thể xóa xổ một đến hai thành viên trong nhóm bạn trong trận đánh mà bạn không thể nào hồi sinh lại được cho đến khi trận đấu kết thúc, trong khi Emerald Weapon có thể giết một lúc ba nhân vật của bạn chỉ với một chiêu "Aire Tam" (Materia spelled backwards), chiêu thức này sẽ gây một lượng sát thương trực tiếp lên các thành viên tùy thuộc vào số Materia mà nhân vật đó được bị, con boss này có đến 1 000 000 HP, và nếu bạn không trang bị materia Underwater, bạn sẽ phải tiêu diệt con boss này trong khi chịu giới hạn thời gian là 20 phút. Hai con boss này không được đưa vào phiên bản gốc tiếng Nhật nhưng chúng đã có mặt trong hai phiên bản Châu Âu và Bắc Mỹ sau khi dự án game hoàn thành.



    Nhân Vật



    Những nhân vật chính có thể chơi được của Final Fantasy VII là Cloud Strife, Barret Wallace, Tifa Lockhart, Aerith Gainsborough, Red XIII, Cait Sith, Cid Highwind, và hai nhân vật ẩn: Vincent Valentine cùng với Yuffie Kisaragi. Sephiroth cũng tham gia vào nhóm để chiến đấu trong một vài sự kiện, anh ta hoạt động tự do, không thể điểu khiển hay nhập lệnh được, cũng như là trang bị của anh ta không thể thay đổi được. Tuy nhiên, thông tin, vật dụng và trang bị của anh ta, có thể xem qua trong sự kiện ký ức của Cloud.
    Những nhân vật quan trọng của Shinra là Reeve Tuesti (Bộ Trưởng Phát Triển Đô Thị), Professor Hojo (Trưởng Ban Khoa Học), Palmer (Bộ Trưởng Hàng Không - Không Gian), Heidegger (Trưởng Ban Bảo Vệ Hòa Bình), Scarlet (Trưởng Ban Nghiên Cứu & Phát Triển Vũ Khí), Tổng Thống Shinra, con của ông ta là Rufus Shinra, và các thành viên thuộc tổ chức hoạt động bí mật có tên gọi là The Turks gồm Elena, Rude, Reno, Tseng.
    Cần lưu ý một điều rằng tên của Aerith trong phiên bản chính thức tiếng Anh của Final Fantasy VII là không chính xác khi trong bản này tên cô được dịch là Aeris. Những sản phẩm sau này có sự xuất hiện của nhân vật này, như là Kingdom Hearts, Crisis Core, và bộ phim Advent Children được giữ nguyên tên là Aerith, điều này chứng tỏ đó là tên chính thức của cô.

    Nhân vật trong series phụ

    Final Fantasy VII có nhiều nhân vật xuất hiện trong một vài game khác do Square phát hành hoặc các sản phẩm của công ty này. Cloud, Tifa, Sephiroth, Vincent, Yuffie, và Zack là những nhân vật có thể điều khiển được trong game đối kháng Ehrgeiz: God Bless the Ring. Tifa xuất hiện trên một poster của game nhập vai nổi tiếng một thời Xenogears. Cloud xuất hiện trong Chocobo RacingFinal Fantasy Tactiics như là một nhân vật ẩn, Aerith cũng có xuất hiện trong Final Fantasy Tactcs. Cloud, Aerith, Yuffie, Cid, và Sephiroth xuất hiện trong game Kingdom Hearts, Kingdom Hearts: Chain of Memories thì không có Sephiroth, và tất cả lại hiện diện trong Kingdom Hearts II với sự có mặt của Tifa. Cloud, Tifa, Aerith và Sephiroth xuất hiện trong game Dragon Quest and Final Fantasy in Itadaki Street Special, cũng như là game Itadaki Street Portable cùng với sự xuất hiện của Yuffie. Tất cả các nhân vật có thể điều khiển đều được xuất hiện trong bộ phim Final Fantasy VII: Advent Children và phần lớn các game khác vào nhiều thời điểm khác nhau bao gồm các game thuộc nhóm Compilation of Final Fantasy VII. Cloud và Aerith, cả hai đều xuất hiện trên đoạn phim giới thiệu về công nghệ game trên hệ máy next-gen có tên gọi là technical demonstration giành cho PlayStation 3 vào năm 2005. Nhiều nhân vật Final Fantasy VII dự kiến sẽ xuất hiện trong bản mở rộng của Sackboy một game trên hệ máy PS3, và cả game LittleBigPlanet, Tuy nhiên cho đến thời điểm này chỉ có Sephiroth là được xác nhận.
    Cốt Truyện


    Công ty sản xuất năng lượng có tên là Shinra Inc. đã khai thác bừa bãi nguồn năng lượng sống của hành tinh (được gọi là Lifestream) để sử dụng giống như là một loại nhiên liệu cho mọi sinh hoạt. Lifestream được chế biến và tạo thành các sản phẩm phục vụ cho ngành điện lực, cũng như có thể chế biến thành Mako và Materia. Sau này có hai viên Materia chứa đựng sức mạnh tuyệt vời mà mọi người phát hiện ra đó là báu vật do những người Ancient để lại. Tuy nhiên, Lifestream cũng giống như những nguồn năng lượng khác, đều là những nguồn năng lượng có hạn, và sự sống của hành tinh đang bị hút sạch một cách không thương tiếc bởi hành động khai thác Mako không ngừng của Shinra. Mặc dù chúng nhận ra được tác hại của việc mà chúng gây ra, nhưng tập đoàn Shinra vẫn tiếp tục khai thác một cách không thương tiếc và không lấy gì làm hối hận. Song, cuộc chiến thực sự của các nhân vật chính không chỉ với một tập đoàn, mà còn với cả một cá nhân đã tồn tại trong quá khứ. Một chiến binh huyền thoại trong quá khứ, tưởng rằng đã chết, nay hắn ta trở lại với mục đích là hấp thụ tất cả năng lượng của Lifestream và giành lại tất cả những gì mà hắn đã mất để hoàn thành mục đích sau cùng. "Hiện nay có một nhóm nổi loạn có nguồn gốc từ một khu ổ chuột muốn tiêu diệt những kẻ đã gây nên tội ác và giành lại sự sống cho hành tinh, trong đó có một tay lính đánh thuê được thuê để thực hiện những vụ nổi loạn, anh cũng đang trên đường tìm lại con người thật của mình giữa những sự cám dỗ và lừa dối." —Lời giới thiệu chính thức
    Planet, còn được gọi là Gaia, là hành tinh của thế giới Final Fantasy VII. Đây là một hành tinh văn minh tiến bộ, với nhiều phát minh hiện đại tương tự như thế giới thật của chúng ta, như là xe hơi, truyền hình, súng ống, và điện thoại di động. Bộ tộc chiếm đa số trong thế giới này là Human (con người), họ giỏi và thông minh hơn những chủng tộc còn lại. Ở đó kinh tế, quân sự, và chính trị bị thống trị bởi một tập đoàn quyền lực có tên là Shinra, chúng thu lợi từ việc sử dụng các công trình được gọi là "Lò phản ứng Mako" (Mako Reactors). Những cái lò phản ứng này hút một loại năng lượng đặc biệt có tên là "Mako" - nằm dưới lòng đất ra khỏi Planet và chuyển nó thành điện năng. Một trong những sản phẩm khác của Mako sau khi tinh chế và chế biến là materia, một dạng cô đặc của Mako, nó cho phép con người có thể sử dụng những loại pháp thuật đặc biệt khi sở hữu nó. Tổng thống Shinra lãnh đạo tập đoàn được đặt theo tên của ông ta, và thực tế là thống trị cả thế giới. Shinra cũng dính dáng đến những việc như thí nghiệm cấy ghép,nhân bản con người một cách khủng khiếp, vô số quái vật được tạo ra và tràn ngập khắp Planet.
    Thực chất, năng lượng Mako được lấy từ Lifestream, dòng chảy sinh mệnh bên dưới bề mặt Planet. Mọi sự sống bắt nguồn từ Lifestream, và trở về với nó khi chết đi. Nói ngắn gọn, Lifestream là tổng hợp của mọi sự sống đã, đang và sẽ tồn tại trên Planet. Quá trình rút trích năng lượng Mako theo đúng nghĩa đen là hút đi sự sống trên Planet để tạo ra điện năng. Có thể nhìn thấy rất rõ ở Midgar - thủ đô của Shinra, tại đây đặt 8 Lò phản ứng Mako đã hút cạn nguồn sống của Planet khiến cho toàn bộ khu vực chìm trong bóng tối vĩnh cửu và cây cỏ không thể mọc được.
    Bộ quản lý Shinra lo lắng về việc nguồn năng lượng Mako cung cấp cho vụ mùa là có giới hạn, đồng thời bị mê hoặc bởi ý tưởng về một "Promised Land"; vùng đất phì nhiêu với dòng Mako cuồn cuộn chảy. Duy nhất một mình chủng tộc Cetra, hay người Ancients mà, dựa theo truyền thuyết, có thể tìm ra nó. Tuy nhiên, người Cetra đã gần như bị tuyệt chủng sau "Calamity From the Skies", sinh vật từ ngoài vũ trụ Jenova. Tất cả đã chết chỉ trừ một Cetra duy nhất, Aeris Gainsborough, là người mà Shinra đang cố gắng bắt giữ bấy lâu.

    AVALANCHE


    Game bắt đầu tại Midgar, vài tiếng đầu tiên trong game sẽ đưa người chơi du hành khắp thành phố. Ở một khu ổ chuột trong thành phố, có một nhóm khủng bố vì môi trường có tên là AVALANCHE, mối đe dọa hàng đầu của Shinra. Người đứng đầu AVALANCHE là Barret Wallace, một người đàn ông to lớn da đen đến từ Corel, một thị trấn bị tàn phá bởi Shinra, vì thế Barret mang trên mình mối thù hận đối với Shinra. AVALANCHE đã mướn một lính đánh thuê có tên là Cloud Strife, người tự giới là đã từng làm viên cho Shinra trong một lực lượng đặc biệt có tên là SOLDIER. Nhưng Cloud bị một chứng trầm cảm nào đó, anh tỏ ra lạnh lùng và ít nói. Anh chấp nhận làm người đánh thuê cho AVALANCHE. Điều mà Cloud quan tâm nhất chỉ là tiền lương mà anh nhận được cho nhiệm vụ của anh tại đây. Những người sát cánh bên cạnh Cloud trong tổ chức này gồm có một người bạn thời thơ ấu của anh là Tifa Lockhart, người mà Cloud đã hứa là sẽ bảo vệ cho sau khi anh gia nhập được vào SOLDIER, ngoài ra còn có các người bạn khác là Jessie, Biggs và Wedge.
    Nhiệm vụ của họ là đánh bom cả tám lò phản ứng Mako nằm trong thành phố. Trong nhiệm vụ đánh bom lò phản ứng Mako số 5, vì một sự cố bất ngờ, Cloud bị thất lạc với cả nhóm và tại đây anh đã gặp Aerith Gainsborough. Để trả thù cho việc AVALANCHE tấn công vào các lò phản ứng, Shinra đã cho phá hủy cái trụ đỡ tấm sắt khổng lồ bên trên Sector 7 để đánh sập toàn bộ khu này và giết sạch những người trong nhóm AVALANCHE, trong đó có cả những người dân vô tội. Aerith bị Shinra bắt cóc và sau đó chúng giam cô trong tòa trụ sở Shinra. Cloud và những thành viên còn sống sót trong AVALANCHE đã đột nhập vào trong tòa trụ sở Shinra để cứu Aerith. Họ cứu được Aerith, và còn cứu được cả một sinh vật dùng để thí nghiệm là Red XIII, nhưng sau đó cả nhóm lại bị bắt giữ. Nhưng họ lại thoát được do bên trong tòa trụ sợ Shinra gặp phải một sự cố bất ngờ. Một chiến binh huyền thoài của SOLDIER trước đây mà mọi người tưởng rằng đã chết có tên là Sephiroth chợt xuất hiện trở lại, hắn ta đánh cắp thi thể của Jenova đang được bảo quản trong tòa trụ sở. Tổng thống Shinra bị Sephiroth giết ngay trên bàn làm việc. Rufus Shinra con của Tổng thống Shinra lên kế vị cha của hắn, Rufus còn trẻ nhưng rất độc ác và đầy tham vọng, Cloud và cả nhóm phải mở vòng vây, đánh bại tất cả những lực lượng của Shinra đang truy đuổi để thoát khỏi Midgar.

    Đuổi theo Sephiroth


    Lúc này các nhân vật sẽ có thể ra khỏi thành phố Midgar bước vào chế độ World Map và có thể đến những thị trấn, thành phố khác. Thị trấn đầu tiên họ đến là thị trấn Kalm, Cloud kể cho mọi người nghe chuyện xảy ra 5 năm về trước, nhưng câu chuyện nghe còn nhiều chỗ chưa được sáng tỏ và còn bí ẩn. 5 năm trước khi bắt đầu sự kiện hiện tại trong game, Cloud và Sephiroth được gửi về quê nhà của Cloud là Nibelheim để nghiên cứu về lò phản ứng Mako ở đây. Ở đó, Sephiroth tìm thấy Jenova, một loài quái vật mà Shinra đã lầm tưởng đó là người cổ đại Ancient sau này Sephiroth đã gọi Jenova là mẹ. Sephiroth bắt đầu tìm hiểu sâu hơn về quá khứ của hắn và biết được thông tin về Dư án Jenova, hắn ta được sinh ra từ dự án này. Dự án Jenova đứng đầu là Tiến sĩ Gast và tên tiến sĩ điên khùng Hojo. Từ đó, Sephiroth bắt đầu điên loạn. Hắn tin rằng hắn là người Ancient cuối cùng còn sống sót, Sephiroth bắt đầu trả thù loài người vì đã giết hại mẹ của hắn bằng việc san bằng và thiêu rụi Nibelheim thành bình địa. Ngọn lửa vô tình đã cướp đi sinh mạng mẹ của Cloud và cha của Tifa. Cloud chạy theo để đương đầu với Sephiroth, chưa biết sự việc diễn ra đến đâu vì Cloud không thể nhớ thêm những gì xảy ra sau đó.
    Trở về thực tại, sau khi nghe tin đồn có một người mặc áo choàng đen đi vào Mythril Mines, cả nhóm quyết định đuổi theo. Tuy nhiên, họ phải vượt qua một đầm lầy lớn để đến được đó, cả nhóm phải học cách bắt và cưỡi Chocobo. Khi họ đến nơi, ngay lối vào, họ thấy Sephiroth đã giết chết một con Midgar Zolom và xiên nó qua một cái cọc dựng đứng như một lời cảnh báo với họ. Cả nhóm vội vàng đuổi theo (gặp nhóm Turks trên đường) và đến được sườn núi bên kia.
    Từ đây, họ đến được thị trấn cảng Junon, họ cứu được một cô gái nhỏ cùng với con cá heo của cô ta từ một con quái vật biển, gia đình cô bé cho phép cả nhóm trọ lại một đêm trong thị trấn. Khi thức giấc, họ ngạc nhiên khi thấy Rufus Shinra đang tổ chức buổi lễ nhân chức tại Junon. Cả nhóm biết rằng muốn đuổi theo Sephiroth thì phải vượt qua được đại dương và đến lục địa phía tây, họ phải cải trang thành lính của Shinra và trà trộn lên tày. Cloud được giao nhiệm vụ làm việc này. Sau buổi lễ, cả nhóm đã trà trộn lên được tàu chở hàng.
    Từ lúc này trở đi, cả nhóm đuổi theo Sephiroth đi khắp nơi trên Planet, du hành qua nhiều ngôi làng, gặp được nhiều nhân vật khác nhau. Nhưng họ không phải là những người duy nhất đuổi theo Sephiroth, mà còn có cả Rufus Shinra cũng dốc toàn lực lượng của hắn để đuổi theo Sephiroth, trong đó có nhóm Turks, một nhóm hoạt động ngầm đặc biệt của Shinra. Cả nhóm bạn phải chiến đấu với nhóm Turks nhiều lần trên hành trình. Ở Gold Saucer họ gặp Cait Sith, một con robot có khả năng tiên tri mà sau này bạn được biết là nó được bí mật điều khiển bởi Reeve, một thành viên trong ban lãnh đạo của Shinra, một người có tấm lòng lương thiện. Ở Rocket Town, Cid Highwind, cả nhóm gặp gỡ một kỹ sư hàng không có tài của Shinra, anh có ước mơ bay vào vũ trụ nhưng dự án của anh bị Shinra từ chối và dập tắt mọi hy vọng, sau đó Cid cũng tham gia vào nhóm. Hơn nữa có hai nhân vật ẩn, Vincent Valentine và Yuffie Kisaragi có thể gia nhập vào nhóm nếu người chơi thực hiện nhiệm vụ phụ của họ. Vincent nguyên là một thành viên trong nhóm Turk, anh bị người mình yêu là Lucrecia Crescent, mẹ thực sự của Sephiroth phản bội, và bị Hojo đem làm thí nghiệm nên biến thành quái vật. Đau khổ, anh ngủ một giấc dài hằng chục năm trong một cái quan tài ở sâu dưới tầng hầm của Shinra Mansion tại Nibelheim. Đó là cách mà anh tự trừng phạt chính mình vị tội đã thất bại trong việc ngăn cản Dự án Jenova. Còn Yuffie cô công chúa nhỏ của Wutai, một quốc gia chống lại Shinra và bị chúng xâm lược vào thời điểm trước khi sự kiện trong game bắt đầu. Cô mong rằng, một ngày nào đó cô có thể giải phóng được Wutai.
    Cuộc truy đuổi Sephiroth vẫn tiếp tục qua đó họ đã phát hiện ra nhiều bí mật. Sephiroth định dùng Black Materia, là một Materia mạnh mẽ của người Cetra để triệu hồi Meteor, phép thuật Black Magic tối thượng. nó có thể tạo ra một quả thiên thạch không lồ và rơi xuống bề mặt Planet tạo ra một vết thương cho hành tinh. Sephiroth dự tính rằng khi ấy sẽ có một lượng lớn Lifestream đền về để khôi phục vết thương đó. Hắn chỉ cần hấp thụ tất cả năng lượng từ số Lifestream ấy để làm sức mạnh cho hắn và hắn có thể điều khiển cả thế giới. Sephiroth tạo ra nhiều bản sao của hắn được gọi làSephiroth Clones. Các bản sau đó dần chết trên đường trở về chổ của hắn; không có bất kì bản sao nào đến được chỗ của Sephiroth. Nhóm của Cloud đi tìm Keystone để mở cửa Temple of the Ancients (ngôi đền của nguời Ancient). Nó được canh giữ bởi Dio, người đứng đầu ở Gold Saucer. Trong lúc họ nghỉ ngơi ở Gold Saucer, Cloud có một cuộc hẹn hò với một thành viên trong nhóm. còn với ai thì tùy thuộc vào sự lựa chọn trả lời của người chơi trong các đoạn đối thoại được gọi là Date Mechanics và ngay cả cách chơi của bạn cũng ảnh hưởng, Cloud có thể hẹn hò với Aerith, Tifa, Yuffie, hoặc Barret. Thông thường nếu không có gì bất ngờ xảy ra thì Aeris hoặc Tifa là hai ứng cử viên cho một suất hẹn hò cùng Cloud, khi người chơi có mục đích và chơi theo kịch bản hợp lý thì có thể Yuffie hoặc Barret sẽ là nhân vật hẹn hò cùng Cloud, tất nhiên là người chơi chỉ có thể hẹn hò được với một người. Sau cuộc hẹn hò, Cait Sith sẽ cướp lấy Keystone và đưa nó cho Shinra theo lệnh của Rufus.
    Bên trong Temple of the Ancients, Sephiroth tấn công trưởng nhóm của Turks là Tseng, có vẽ như là Sephiroth muốn giết Tseng. Do bản dịch có sai sót cho nên cái game thủ chơi bản tiếng Anh của Final Fantasy VII tưởng rằng Tseng đã chết trong cuộc tấn công này; nhưng thật sự Tseng vẫn còn sống và xuất hiện trở lại ở các game sau này. Cloud khám phá ra rằng, bản thân ngôi đền này chính là viên Black Materia. Để khiến cho ngôi đền biến thành viên Black Materia thì một người nào đó phải ở lại trong ngôi đền để kích hoạt cho nó thu nhỏ lại thành viên Materia, điều này đồng nghĩa với việc người đó sẽ chết. Cait Sith tình nguyện làm việc này, sau khi nói rõ về bản thân và xin lỗi mọi người về những chuyện đã gây ra, Cait Sith hối thúc mọi người ra khỏi ngôi đền và bật công tắc khiến ngôi đền thu nhỏ lại và biến thành viên Black Materia. Cloud cầm viên Materia lên, tưởng rằng Planet lúc này sẽ an toàn. Nhưng Sephiroth đã sử dụng năng lương siêu nhiên để điều khiển Cloud, khiến anh đưa cho hắn viên Black Materia. Khi Cloud gục ngã mất điều khiển bản thân và bất tỉnh thì một con Cait Sith khác xuất hiện và gia nhập vào nhóm, đúng hơn là con này y hết như con đã chết (Vì Cait Sith là một con robot được Reeve điều khiển, khi hy sinh con kia thì ông đã chuẩn bị con thứ 2 này để tiếp tục đồng hành cùng nhóm). Sau sự kiện đó, Aerith đã bí mật rời nhóm và ra đi để tìm cách cứu lấy cả thế giới tránh khỏi thảm họa từ Meteor.
    Aerith đi đến Forgotten Capital, một thành phố bị bỏ hoàng mà xưa kia nó là thủ đô của người Cetra, ở đây, cô đã quyết định sẽ triệu hồi Holy. Holy là pháp thuật tối thượng của White Magic, nó có khả năng chống lại Meteor và tiêu hủy toàn bộ sức mạnh của nó. Cloud và nhóm bạn sau khi phát hiện việc này đã đuổi theo cô và Sephiroth. Khi họ đến nơi, Cloud lại một lần nữa bị Sephiroth điều khiển nên suýt giết Aerith, may mắn là những người bạn của Cloud đã ngăn cản anh và giúp anh lấy lại bình tỉnh và tự chủ. Aerith đã bị Sephiroth giết một cách dã man; hắn ta đâm thanh Masamune xuyên thân của Aerith, đây là cảnh xúc động và nổi tiếng nhất trong lịch sử dòng game Final Fantasy. Cloud thực sự nổi giận sau cái chết của Aerith, sau khi giết Aerith, Sephiroth vẫn tỏ thái độ ung dung trước việc mình vừa làm. Sephiroth đã buông lời chế nhạo Cloud, hắn nói rằng đối với hắn, Cloud chỉ là một con bù nhìn không hơn không kém. Sephiroth bay lên trời và nén lại một phần thân thể của Jenova biến thành một con quái vật để cản đường. Kẻ mà cả nhóm cho là Sephiroth và sẳn đuổi bấy lâu nay chỉ là một ảo ảnh do hắn tạo ra chứ không phải là Sephiroth bằng xương bằng thịt. Sau trận đấu với phần thân thể của Jenova cả nhóm thương tiếc và nặng nề bởi cái chết của Aerith, Cloud thả thân thể Aerith chìm dần xuống dòng nước dưới đáy hồ ở Forgotten Capital. Cloud quyết tâm tiếp tục cuộc hành trình của họ để trả thù cho Aerith và bắt Sephiroth phải trả giá cho những gì mà hắn đã gây ra, mặc dù anh biết rằng sau này, có thể anh sẽ lại mất tự chủ khi Sephiroth điều khiển anh và việc đó sẽ gây ra tai họa.
    Mang trên mình nỗi đau mất mát Aerith, cả nhóm tiếp tục hành trình bám đuổi theo Sephiroth/Jenova. Họ cuối cùng đã đến được cái đích cuối cùng, đó là Northern Crater một cái hố được tạo bởi Jenova lúc đáp xuống hành tinh này. Họ đi vào sâu bên trong hố, và hy vọng sẽ kết thúc mọi việc tại đây. Ở đây họ gặp lại Rufus và bè đảng của hắn đến đây trên chiếc Airship Highwind. Cloud cùng Tifa và một thành viên nữa tróng nhóm đến đối mặt với Sephiroth. Tuy nhiên, tất cả những gì họ tìm thấy là những ảo ảnh mà Sephiroth tạo ra về sự kiện ở Nibelheim. Sephiroth đã cho Cloud thấy rằng anh chưa bao giờ ở Nibelheim, mà thay vào đó là Zack Fair. Dù cho Tifa nói với Cloud không nên tin những lời lừa dối đó nhưng Cloud không thể nào không tin được Sephiroth, Cloud bắt đầu tin rằng đó là sự thật. Hơn nữa, Sephiroth nói rằng Cloud bây giờ đã không còn hoàn toàn là Cloud mà chỉ là một bản sao được tạo ra bởi Hojo, cho nên anh chỉ là một con rối để người khác điều khiển. Rufus cũng bắt đầu đặt chân vào nơi này, nhưng buộc phải rời khỏi vì sự tăng nồng độ đột ngột của Mako. Trong thời gian này, Cloud lại một lần nữa bị Sephiroth điều khiển đưa cho hắn viên Black Materia, sau khi lấy lại được bình tĩnh thì anh đã xin lỗi Tifa về những lỗi lầm anh vừa làm rồi nhảy xuống dòng Lifestream. Thế là bây giờ Sephiroth đã hoàn toàn triệu hồi được Meteor. Đó là nguyên nhân khiến Planet chuyển sang trạng thái tự bảo vệ, dẫn đến việc xảy ra sự kiện thức giấc của các quái vật bảo vệ Planet, đó là năm con WEAPON. Năm con WEAPON là những con quái vật không lồ với sức mạnh tàn phá khủng khiếp. Cả nhóm trừ Cloud trốn thoát khỏi nơi này trên chiếc Highwind. Tifa bị bất tỉnh trong khi chạy trốn, Barret cố gắng cõng Tifa trốn thoát nhưng bị bắt, cả hai đều bị đem đến và giam giữ tại Junon...



    Thiên thạch rơi


    Tifa tỉnh dậy ở Junon vào thời điểm bảy ngày sau sự kiện ở Northern Crater. Cô nhìn ra cửa sổm ngoài kia, cụ thể là trên bầu trời, mảng thiên thạch cực kỳ lớn đang tiến dần về Planet và thảm họa đang ở treo lơ lửng trên đầu mọi người. Dường như Rufus đã thôi không tấn công vào Sephiroth nữa. Bởi vì hắn đang được bao bọc bởi một lớp bảo vệ ở Northern Crater. Rufus cố gắng chứng tỏ rằng Shinra vẫn còn có thể điều khiển được tình hình đang nguy cấp, hắn quyết định hành hình Tifa và Barret. Chúng sẽ mở một phiên tòa hành xử tội Tifa và Barret được công khai cho cả thế giới biết. Trước khi cuộc hành hình diễn ra, có một con WEAPON bất ngờ tấn công vào Junon (đó là con Sapphire Weapon). Rufus lập tức cho sử dụng khẩu súng thần công dùng năng lượng Mako là Sister Ray để bắn hạ con Shapphire Weapon, và con quái vật đã bị hạ gục, chìm sâu xuống lòng biển. Sau đó, cả nhóm cứu Tifa và Barret rồi cướp lấy chiếc Highwind để trốn thoát khỏi Junon.
    Sau này, cả nhóm tìm thấy Cloud đang chịu đau khổ vì nhiễm độc Mako ở thị trấn Mideel. Tri thức của Cloud hoàn toàn bị mất sạch, anh chẳng khác gì thực vật, Tifa quyết định rời nhóm và ở lại bên cạnh chăm sóc cho Cloud. Còn Cid Highwind thì trở thành trưởng nhóm mới. Cid đã chỉ đạo cho cả nhóm đi ngăn cản kế hoạch của ngăn chặn Meteor điên rồ của Shinra. Chúng tính đem nhưng viên Huge Materia lên chiếc hỏa tiễn của Cid và phóng nó thẳng vào Meteor nhằm phá hủy nó. Tùy thuộc vào hành động của người chơi, có thể bạn sẽ cứu được tất cả những viên Huge Materia hoặc cũng có thể bạn sẽ không cứu được viên nào. Nhưng cốt truyện thì không thay đổi, Kế hoạch này của Shinra sau cùng cũng thất bại.
    Ở Mideel, con Ultimate Weapon đâm sầm xuống mặt đất tạo ra một lổ hỏng khai thông với dòng Lifestream. Mideel bị phá hủy trong Cloud và Tifa vẫn còn ở bên trong. Họ rời xuống dòng Lifestream. Ở đây Tifa đã du hành bên trong Tiềm thức của Cloud và giúp Cloud đi tìm lại ký ức thật sự cùng với nỗi khao khát tiềm ẩn của anh, Cloud gia nhập SOLDIER là một phần trong khao khát muốn được bảo vệ cho Tifa. Giờ đây cô tin rằng đây mới chính là những ký ức thật sự của Cloud, tuy nhiên những ký ức đó đa phần bị ảnh hưởng bởi nguyên nhân nào đó. Tinh thần của Cloud bị tổn thương rất nhiều sau cuộc thí nghiệm dã man của Hojo và sau đó bị ảnh hưởng bởi cái chết của Zack, anh đã hòa nguyện dòng ký của mình, của Zack và của cả Tifa làm một, anh sống với ký ức của Zack. Cloud lúc này đã tiết lộ rằng anh chưa từng là một SOLDIER, anh đã thất bại trong việc gia nhập tổ chức này. Vì không muốn Tifa phải nhìn thấy anh trong bộ dạng một tên lính quèn thất bại khi anh trở về quê nhà cho nên cho nên Cloud đã ẩn mình sau lớp mặt nạ của lính Shinra lúc trở về làm nhiệm vụ tại Nibelheim cùng với Sephiroth. Rồi sau đó, cũng chính Cloud đã đánh bại Sephiroth trong sư kiện xảy ra ở Nibelheim, chính nhờ sức mạnh mãnh liệt của lòng thù hận đã giúp Cloud làm điều đó và anh đã ném Sephiroth xuống dòng Lifestream. Sau khi lấy lại những ký ức thật sự của mình, Tinh thần của Cloud đã ổn định và anh dần hồi phục, sau đó anh tiếp tục quay lại và lãnh đạo cả nhóm.
    Với sự giúp dỡ của già làng ở Cosmo Canyon là Bugenhagen, cả nhóm đã khám phá ra bí ẩn đằng sau cái chết của Aerith. Cô ấy đã triệu hồi được Holy trước khi chết, nhưng hiện nay pháp thuật đó đang bị Sephiroth giữ chặt ở sâu bên dưới Planet. Vào thời điểm này, con Diamond Weapon vượt qua biển để tiến thẳng đến Midgar để san bằng thành phố này thành bình địa. Rufus và các quan chức lãnh đạo Shinra đã vận chuyển khẩu Sister Ray về Midgar trước đó để chuyển bị cho cuộc tấn công nhằm vào Sephiroth. Khẩu thần công năng lương Mako này cũng được sử dụng để gạ gục con Weapon, nó xuyên thủng con Weapon rồi tiếp tục bay về phia Northen Crater, nơi sào huyệt của Sephiroth, phá vỡ lớp vỏ bảo vệ xung quanh. Nhưng chỉ vừa tíc tắc trước con Weapon bị tiêu diệt, nó đã phóng một đòn energy blasts vào Tòa trụ sở Shinra để giết Rufus và đầu não của cả tập đoàn. Midgar bị biến thành một nơi hỗn loạn.
    Cloud đột nhập vào trụ sở Shinra để tiêu diệt Hojo, kẻ đang nắm quyền điều khiển khẩu Sister Ray. Cả nhóm phải chiến đấu với Turks và lực lượng phòng vệ của Shinra còn sót lại để tiếp cận được với Hojo. Sau đó Hojo tiết lộ rằng hắn muốn sử dụng Sister Ray để tiếp thêm sức mạnh cho con trai của là Sephiroth; Cả nhóm đều bị bất ngờ và kinh tởm khi biết được rằng Hojo chỉnh là cha đẻ của Sephiroth, thế nhưng Sephiroth thì chắc là không biết điều đó. Nếu có Vincent trong nhóm, anh ta sẽ nổi giận và nói rằng mọi tỗi lội ngày hôm nay đều do Hojo gây ra, vì điều đó mà anh phải ngủ một giấc dài suốt hàng chục năm. Kinh tởm hơn khi cả nhóm biết rằng, Hojo đã lấy chỉnh bản thân của hắn làm vật thí nghiệm và tiêm tế bào Jenova vào người hắn, Cả nhóm liền hợp sức tiêu diệt Hojo.

    Chỉ còn đúng một tuần nữa là tảng thiên thạch sẽ đâm sầm vào Planet và gây ra thảm họa, Cloud và cả nhóm quyết định nghỉ ngơi một ngày và về thăm gia đình trước khi đối mặt với Sephiroth trong trận chiến cuối cùng. Không còn nơi nào gọi là nha và không còn việc gì để làm trong ngày nghỉ này, Cloud và Tifa đã ở bên cạnh nhau dưới bầu trời đêm đầy sao. Sáng hôm sau cả nhóm đều quay trở lại và có mặt đầy đủ, thậm chí họ đã nhìn lén việc Tifa và Cloud bên cạnh nhau đêm qua, điều này Tifa vô cùng mắc cỡ.
    Trận chiến cuối cùng với Sephiroth diễn ra tại đáy sâu bên trong Northern Crater. Sephiroth biến thân thể của hắn thành Bizarro∙Sephiroth và sau đó là biến về dạng Safer∙Sephiroth, một hình dạng nữa người nữa thiên thần. Chính xác là thiên thần có sáu chiếc cánh màu trắng đẹp đẽ nhưng lại có một cái cánh đen của tội ác. Mặc dù là sức mạnh của Sephiroth rất khủng khiếp, nhưng hắn đã bị cả nhóm đánh bại và tiêu diệt. Cloud sau đó đã phải một mình chiến đấu với thực thể cuối cùng của Sephiroth ở bên trong dòng Lifestream - đây là hình dáng thật sự của Sephiroth, nhưng rồi hắn cùng thất bại. Tuy nhiên, chiến thắng dường như đã quá đến quá trễ. Khi hạ gục Sephiroth để Holy được giải thoát, tảng thiên thạch đã đến quá gần mặt đất và Holy không đủ khả năng để ngăn chạn nó nữa. Midgar bị tàn phá bởi vụ va chạm giữa Meteor và Holy, nhưng trước khi tảng thiên thành phá hủy hoàn toàn cả hành tinh, dòng Lifestream đã tụ họp lại bên dưới, Đẩy tảng thiên thạch Meteor và cả Holy lên không trung, đủ xa để cả hay triệt tiêu lẫn nhau mà không gây thiệt hại đến Planet, thêm vào đó, chính dòng Lifestream đã hỗ trợ sức mạnh cho Holy để tiêu diệt và phá hủy hoàn toàn sức mạnh của Meteor. Game mờ dần và kết thúc, trước khi hình ảnh gương mặt của Aerith hiện lên với nụ cười thánh thiện.
    Phần kết của game là đoạn phim Red XIII và những đứa con của mình đứng trên mõm đá nhìn xuống đống đổ nát của thành phố Midgar, ở đó người dân đang cực phục hồi lại thành phố và xây dựng lại cuộc sống sau thảm họa vừa qua. Đoạn kết có vẽ mơ hồ, vì thế nhiều câu hỏi được đặt ra từ phía người chơi rằng sự việc sau đó sẽ thế nào và số phận con người trong thế giới Final Fantasy VII sẽ ra sao ?. Câu hỏi đó sẽ được trả lời trong phần tiếp theo của Final Fantasy là bộ phim (Advent Children), bộ phim này có nội dung nói về cuộc sống tại Planet sau thảm họa Meteor.

    Âm Nhạc



    Đây là game thứ 22 của Square mà Nobuo Uematsu chịu trách nhiệm sáng tác nhạc. Âm nhạc trong game được phát hành dưới dang bộ gồm bốn đĩa, một đĩa đơn được phát hành có tên là Final Fantasy VII: Reunion Tracks gồm những bản nhạc nổi bật trong game và các bản hòa tấu trên piano. Đặc biệt album này bao gồm các bản nhạc nổi bật như Aerith's Theme, một bản nhạc thánh thiện du dương của nhân vật và One-Winged Angel một bài hát chủ đề bất hủ của một nhân vật phản diện, đặc biệt đây là bài hát có lời. Bài hát chủ đề của game xuất hiện trong chế độ World Map ở Đĩa 1 dài 6 phút. Rất nhiều bản nhạc trong Final Fantasy VII đã được hòa âm phối khí lại trong các sản phẩm sau này của Square (và Square Enix), bao gồm Kingdom HeartsFinal Fantasy VII: Advent Children.
    Vào thời điểm trò chơi phát hành, bộ soundtrack trong Final Fantasy VII được xem là những sáng tác thành công nhất của Uematsu. Nhờ vào việc công ty đã cho phép Uematsu tự do sáng tạo và chuẩn bị cho ông đầy đủ điều kiện, ông đã sử dụng những bản âm thanh MIDI chất lương cao để đưa vào game. Đây là lần đâu tiên công nghê âm thanh Redbook và âm thanh kỹ thuật số được đưa vào một sản phẩm của họ. Và thực sự game đã đạt được một bước tiến xa trong lịch sử làm game của Square nói riêng và ngành công nghiệp game nói chung, điều đó được chứng minh cụ thể bằng việc Final Fantasy VII đã đạt được những danh hiệu trên nhiều tạp chỉ về game để lại ấn tượng nhiều nhất cho người chơi và lọt vào danh sách những game vĩ đại nhất trong lịch sử.

    Phát Triển


    Được lên kế hoạch trong một buổi họp bàn về dự án Final Fantasy VII năm 1994 sau khi phát hành Final Fantasy VI. Vào thời điểm đó, game được lên kế hoạch là một dự án trò chơi 2D cho hệ máy Super Nintendo Entertainment System. Người sáng tạo dòng game là Hironobu Sakaguchi dư định là cốt truyện game sẽ diễn ra tại thành phố hiện đại New York vào năm 1999. Rất nhiều nhân viên đang thực hiện song song cả hai dự án Chrono TriggerFinal Fantasy VII bị hoàn lại và tập trung cho dự án quan trọng hơn, trong đó có Yoshinori Kitase và một số nhân viên thiết kế đồ họa khác. Một số ý tưởng dành cho Final Fantasy VII được xem xét khi mà dư án Chrono Trigger kết thúc. Có vài ý tưởng khác, như là sửa chửa lại bố cục của thành phố New York và một nhân vật phù thủy có tên là Edea đều bị bác bỏ cho đến khi thực hiện dự án Parasite EveFinal Fantasy VIII được khởi động. Kịch bản gốc của Final Fantasy VII được viết bởi Sakaguchi, và được hoàn thành khi các khâu thiết kế hoàn tất. Tetsuya Nomura nhớ lại việc Sakaguchi "muốn làm về một cái gì đó liên quan đến truyện trinh thám". Phần đầu tiên của cốt truyện có liên quan đến một nhân vật có "nhiệt huyết" tên là "Thám tử Joe" người đã được dự định sẽ là nhân vật chính cho game. Nhân vật chính theo kịch bản ban đầu là sẽ âm mưu đánh bom thành phố Midgar, sau này ý tưởng này phần nào được phát triển vào game chính thức.
    Dự án phát triển Final Fantasy VII được khởi động lại vào cuối năm 1995, yêu cầu sự nổ lực của tổng công khoảng 120 nhà thiết kế và lập trình viên, sử dụng công nghê PowerAnimator và các phần mềm 3D như Softimage, tổng cộng kinh phí tiêu tốn hơn 30 triệu $. Tổng đạo diễn và là người viết kịch bản cho Final Fantasy VI là Kitase đã trở lại tham gia vào dự với chức danh là người viết kịch bản và đạo diễn cho Final Fantasy VII. Sở dĩ game lần này được lên kế hoạch xây dựng đồ họa 3D là do lo ngại nếu không sử dụng kỹ thuật đồ họa tiên tiến sẽ khó mà cạnh tranh với các game vào thời điểm đó. Khi mọi việc đã đâu vào đó rồi thì họ tiến hành sản xuất ra game, Thử nghiệm đầu tiên là bản demo "Final Fantasy SGI" được giao cho công ty Silicon Graphics, Inc. và Onyx workstations. Bản demo giới thiệu hệ thống mô hình đồ hoặc 3D của các nhân vật Final Fantasy VI trong trận đánh thời gian thực. Đây là một bản thử nghiệm nhằm giới thiệu những nền tảng công nghệ sẽ đưa vào phát triển trên Final Fantasy VII. Tuy nhiên, dung lượng khổng lồ của những tập tin lưu trữ dữ liệu game chỉ có thể được lưu trữ trên đĩa CD-ROM, vì thế, dự án lại một lần nữa đối mặt với khó khăn. Nintendo là hệ máy nền mà các phiên bản Final Fantasy trước dựa vào đó phát triển đã tuyên bố rằng họ vẫn sẽ tiếp tục sử dụng thiết bị lưu trữ là băng cadtrige cho phiên bản máy Nintendo 64 tiếp theo. Nhưng thực thế loại thiết bị lưu trữ này không thể nào chứ nổi những tập tin lớn của game, vì thế đây là một khó khăn đã khiến Square hoãn lại dự án của mình khá lâu. Sau một loạt sự kiện rùm beng với Nintendo, thì vào ngày 12 tháng 1 năm 1996, Square chính thức thông báo rằng Final Fantasy VII sẽ được phát hành trên hệ máy Sony PlayStation.
    Sự chuyển giao giữa công nghệ đồ họa 2D lên môi trường 3D gặp nhiều khó khăn với công nghệ lúc bấy giờ, cho nên các bối cảnh phông nền được giữ lại ở dạng 2D. Trong khi dung lượng lưu trữ của đĩa CD-ROM cho phép giới hạn lớn hơn thì các nhà thiết kế đã thoải mái phô trương công nghệ. Vì thế đã có sự ra đời các đoạn phim FMV (Full Motion Video), các đoạn phim này mô tả chi tiết hình ảnh đồ họa trong game, khắc họa nổi bật công nghệ. Kitase đã mô tả lại rằng quá trình làm cho những cảnh trong game chi tiết đến mức có thể là một "nhiệm vụ dễ nhụt chí". Nhà thiết kế nhân vật lâu năm, Yoshitaka Amano, bận rộn với việc khai trương xưởng vẽ và dự các buổi triển lãm ở France và New York, đã hạn chế sự tham gia của ông. Khó khăn này đã được giải quyết bằng cách đưa Nomura lên làm hoạ sĩ chính cho dự án, còn Amano sẽ góp phần vào việc thiết kế World Map của trò chơi.
    Theo xu hướng của Final Fantasy VI trong việc xuất hiện ở thế giới game số lượng đáng kể những tiến bộ trong công nghệ hiện đại. Điểm nhấn của game về mặt cốt truyện chứa đựng sự văn minh trong khoa học là việc bay vào không gian, công nghệ robot, công nghệ di truyền sinh học, súng ống tự động, vũ khí năng lượng, xe có gắng động cơ, trực thăng, trọng lực học, tập đoàn kinh doanh; nền công nghệ trong thế giới Final Fantasy VII có thể nói là gần như đạt được sự phát triển rất gần với hiện nay.
    Trong game cũng tồn tại những tư tưởng triết học và các tín ngưỡng thực tại, nó được phản ánh qua cái tên của nhân vật Sephiroth (Lấy ý tưởng từ những đạo thuật bí ẩn của người Do Thái) và Heidegger (lấy ý tưởng từ tên của một triết gia người Đức là Martin Heidegger), cũng như tên các địa danh như Midgar và Nibelheim (cả hai cái tên này đều xuất phát từ các thần thoại Bắc Âu, vùng Scandinavi), ngày cả tên của quái vật cũng không tránh khỏi quy luật này, điển hình là Midgar Zolom, ám chỉ đến Midgardsorm (cũng có nguồn gốc từ thần thoại Bắc Âu). Thêm vào đó, có nhưng nhân vật hay thuật ngữ được dùng lại từ các tựa game trước trong loạt game Final Fantasy, bao gồm những cái tên quá đỗi quen thuộc như Cid, Biggs và Wedge, nhưng giai điệu âm nhạc cũng được chuyển thể lên phiên bản game này, ví dụ như bản chocobo theme.
    Do không hài lòng với bản dịch của Final Fantasy VI dưới sự giám sát của Ted Woolsey (nhìn chung thì chất lượng tương đối tốt, nhưng lại thay đổi nghiêm trọng một vài đoạn trong cốt truyện), Sakaguchi nhất quyết yêu cầu bản tiếng Anh phải do đội ngũ phát triển game ở Nhật chịu trách nhiệm, như đã làm với Final FantasyFinal Fantasy IV. Kết quả là mặc dù bản dịch có sát nghĩa hơn so với các phiên bản trước, nhưng có vài lời chỉ trích do đôi chỗ dịch còn vụng về kèm hàng đống lỗi ngữ pháp. Bản post sang Windows cũng dùng lại kịch bản đó, nhưng đã sửa lại những lỗi sai nghiêm trọng. Sau này, Square đã chịu thuê những dịch giả người Mỹ cùng hợp tác với đội ngũ người bản xứ, thay vì làm một mình.
    Trò chơi đạt được nhiều thành công lớn về mặt thương mại. Toả sáng rực rỡ trên những trang bình luận của hầu hết các tạp chí game, đến năm 1999 nó đã bán được hơn tám triệu bản trên toàn thế giới, chỉ mới ra trong vòng 48 giờ đã tiêu thụ hơn 3 triệu. Trò chơi nhập vai trên console đầu tiên mà tiếng tăm vượt ra khỏi khu vực châu Á, chính nhờ danh tiếng đến tận bây giờ vẫn còn đó đã khiến Square Enix cho ra hàng loạt bản sequels và prequels thành một bộ sưu tập mang tên Compilation of Final Fantasy VII.
    Không tính đến những bản spin-off hay những dòng anh em khác (như Final Fantasy Mystic Quest), Final Fantasy VIIFinal Fantasy đầu tiên được phát hành ở châu Âu và ở Úc, đồng thời cũng là phiên bản đầu tiên không bị đổi tên trên Bắc Mỹ kể từ dòng Final Fantasy trên NES. Điều này bước đầu gây hoang mang cho những khách hàng ở Bắc Mỹ. Final Fantasy II, III, và V chưa từng được phát hành tại Bắc Mỹ. Thay vào đó, Final Fantasy IVFinal Fantasy VI ở bên Mỹ là Final Fantasy IIIII lần lượt theo thứ tự. Loạt game ở Mỹ thực sự đã nhảy vọt từ III lên VII khi Final Fantasy VII được bán ra, trong khi thực tế chính là phiên bản tiếp theo. Những khách hàng bên châu Âu còn bối rối hơn nữa, họ cũng khen ngợi trò chơi như mọi người ở nơi khác, nhưng lại nghĩ rằng 6 phiên bản trước kể về hành trình phiêu lưu của Cloud và nhóm bạn.



    Final Fantasy VII International

    Phiên bản Bắc Mỹ và hệ PAL của trò chơi Final Fantasy VII được thay đổi khác đi nhiều so với bản gốc tiếng Nhật. Rất nhiều nơi trong cốt truyện của game khiến người khơi gặp khó khăn khi được thêm vào những con Boss mới. Tỷ lệ đụng phải những trận đánh ngẫu nhiên được giảm đi và việc thay đổi các viên Materia giữa các nhân vật được thiết kế dễ lại làm người chơi dễ thực hiện hơn. Cùng với đó, những đoạn hồi tưởng về Cloud và Zack được thêm vào. Bản Bắc Mỹ của trò chơi Final Fantasy VII được phát hành lại tại Nhật Bản, được gọi là "Final Fantasy VII International", đó là Bản International đầu tiên của dòng game Final Fantasy, Mỗi game trong series sau này đều có một Bản International như vậy. Phiên bản International của Final Fantasy VII được bán kèm với một đĩa thứ tư đặc biệt nó bao gồm một bản giới thiệu các bản đồ trong game, thông tin nhân vật, các bức vẽ phác họa và những thứ linh tinh khác.
    Compilation of Final Fantasy VII

    Khi bước qua thiên niên kỉ mới, Yoshinori Kitase và Tetsuya Nomura được tiếp cận với các công nghệ tiên tiến, thêm vào đó là các yêu cầu đòi hỏi các game được phát triển để phù hợp với xu thế mới và các hệ máy tiên tiến và các phương tiện truyền thông. Vì thế mà Final Fantasy VII được, nó được khởi động bởi dự án Compilation of Final Fantasy VII. Dự án có tổng cộng hai game trên hệ máy điện thoại di động, một game diễn ra trước sự kiển bản gốc, một game nối tiếp cốt truyện, một bộ phim CGI 3D, một tựa phim hoạt hình, và nhiêu tiểu thuyết ngắn khác. Mỗi game, bộ phim, hay tiểu thuyết trong dự án đều có cốt truyện giải thích những thắc mắc của người chơi xoay quanh câu những sự kiện diễn ra trong Final Fantasy VII cả trước và sau khi diễn ra các sự kiện trong phiên bản chính thức. Theo lời phát biểu của Kitase, sẽ tiếp tục mở rộng và cốt truyện trong bản gốc sẽ được giải thích rõ ràng qua từng phiên bản của dự án, và hoàn tất vào dịp kỉ niệm 20 năm ngày ra đời loạt game Final Fantasy.
    Tin đồn về việc remake

    Trong buổi giới thiệu của Sony ở hội chợ E3 năm 2005, Square Enix đã cho trình chiếu một đoạn Technical Demo cho hệ máy PS3 có cảnh mở đầu của game Final Fantasy VII được remake trên PS3. Nhưng sau đó Square-Enix đã chính thức khẳng định rằng, hiện tại họ không có kế hoạch gì liên quan đến dự remake cho game Final Fantasy VII trên hệ máy PS3.
    Lời đồn thổi lại tiếp tục được hâm nóng lên khi Square Enix cho trưng bày nhưng tấm artwork mới tại Nhật Bản trong buổi lễ kỉ niệm 10 năm sự kiện Final Fantasy VII ra đời. Những tấm artworks thể hiện lại lại những nhận vật trong bộ trang trang phục Final Fantasy VII, và thể là tin đồn càng lúc càng mãnh liệt hơn. Những tấm CGI artwork này được in trên các bao bì, lon nước giải khát. Kazuo Hirai, giám đóc của Sony Computer Entertainment Nhất Bản, càng đổ thêm dầu vào lửa để cho những lời đồn ngày càng mạnh mẽ hơn khi đã cho dán một thông báo nhỏ tại cuộc triển lãm là "Hãy cùng chúc mừng cho 10 năm tuyệt với của Final Fantasy VII! Nhưng điều tuyệt vời hơn sẽ đến với nó".
    Sự ra đời của game Crisis Core -Final Fantasy VII- lại đem lại hy vọng mới cho những người mong chờ Final Fantasy VII được remake. Đoạn kết của game này cho người chơi xem đoạn mở đâu của Final Fantasy VII trong môi trường đồ họa CG, theo sau là một màn hình đen với dòng chữ "to be continued in FINAL FANTASY VII". Vì thế những lời đồn cho rằng những dòng chữ này đang gợi ý nhẹ nhàng với mọi người rằng phiên bản gốc sẽ được remake. Nhưng thực sự, dòng chữ trên chỉ nói đến việc, sau cốt những sự kiện của game này sẽ là cốt truyện của phiên bản gốc trò chơi Final Fantasy VII, sở dĩ để dòng gợi ý này vì họ chắn chắn rằng vẫn còn có người chưa chơi qua phiên bản game chỉnh của Final Fantasy VII.

    Lòi đồn lại một lần nữa nổi lên khi một tấm ảnh chụp bảng thông báo về việc remake Final Fantasy VII được tung đi vào ngày 16 tháng 8 năm 2008. Nhưng đó chỉ là một thông báo giả mạo vì ngày tháng ghi trên đó đã qua rồi.
    Bấp chấp việc những fan hâm mộ đang mong chờ việc remake, Square Enix vẫn kiên quyết bác bỏ hết mọi tin đồn về việc remake game trong một thời gian dài. Sau này, Một bức những bức ảnh mang tên CLOUD Vol.2 xuất hiện trên Internet lại làm nổi lên những tin đồn remake. Nhưng Square Enix lại tiết lộ đó là những tấm ảnh bìa sách, mặc dù cuốn sách đó là gì thì đến bây giờ nó vẫn chưa được phát hành.
    Final Fantasy VII được phát hành trên PlayStation network cho hệ máy PS3 và PSP vào tháng 4 năm 2009 ở nhật, còn ở Mỹ và Europe là tháng 6. Giá của nó là $9.99 ở Mỹ và £7.99 ở Anh. Game được phân loại là T tực là dành cho Teen trong thang đánh giá của ESRB.
    Tháng 12 năm 2009, Tetsuya Nomura ám chỉ trong một thông báo rằng khi tới một lúc nào đó trong năm 2010 hứa hẹn sẽ xuất hiện một số game mà rất nhiều fan yêu cầu - trong số đó có những game mà bản thân ông cũng muốn nó được tiến hành sản xuất, và sau đó, tất nhiên là lời đồn về việc remake game Final Fantasy VII lại bắt đầu được lan truyền.
    Vào tháng 1 năm 2010, Tetsuya Nomura lại tiếp tục bồi thêm một cú sốc nữa khi phát biểu rằng "Các fan vẫn hy vọng rằng Square sẽ cho ra đời phiên bản ramake của FFVII, nhưng tôi không tin rằng nó sẽ xảy ra vào thời điểm hiện tại." Và cũng nhưng mọi khi, có lẽ thông báo này sẽ chấm dứt cho mọi sự đồn thổi về việc remake, nhưng vẫn xuất hiện vài ý kiến trái chiều cho rằng "không xảy ra vào thời điểm hiện tại" nghĩa là nó sẽ xảy ra vào tương lai.
    Vào tháng 2 năm 2010, Yoshinori Kitase công khai phát biểu rằng có thể dự án remake Final Fantasy VII sẽ được thực hiện trong tương lai, nhưng nó cũng chỉ là một phát biểu mơ hồ.
    Vào đầu tháng 3 năm 2010, Square Enix đã cống bố trên blog của mạng xã hội Twitter rằng họ đang nghĩ đến việc remake một game nào đó.
    Vào ngày 22 tháng 3, 2010, Tổng giám đốc của Square Enix là ông Yoichi Wada tuyên bố rằng công ty sẽ "nghiên cứu về khả năng - dù chúng tôi có làm điều đó hay không, nếu làm thì chúng tôi phải có thời gian và nhân lực, và hệ máy mà nó ra đời."[2]
    Vào ngày 31 tháng 5 năm 2010, Tổng giám đốc của Square Enix, ông Yoichi Wada phát biểu rằng "sẽ phải tốn nhiều thời gian hơn dự kiến để đầu tư vào một dự án là remake Final Fantasy VII". tuy nhiên, do SquareSoft đã nhận được rất nhiều lời yêu cầu, cho nên viễn cảnh về 1 bản remake chưa hoàn toàn hết hi vọng.[3]
    Trong lúc mọi việc tưởng chừng không có hy vọng nào cho việc remake, các fan trung thành cũng đã lắng dịu về các lời đồn. Một cộng đồng chuyên về bản mod cho Final Fantasy 7 PC trong 10 năm qua đã chế ra nhiều bản mod đa dạng, phần lớn là dành cho phiên bản Final Fantasy VII trên PC. Tuy nhiên, cũng có một vài cộng đồng khác làm trên bản PS. Những bản patch được dùng để cải thiện yếu tố nghe/nhìn và gameplay.[4]

    Ngoài Lề



    • Trong khi đang thực hiện Final Fantasy VII, Mẹ của Hironobu Sakaguchi qua đời. Vào lúc đó, Sakaguchi muốn truyền vào cốt truyện cảm giác khi bị mất một người thân là như thế nào, cái chết không có nghĩa là một người nào đó vĩnh viễn ra đi, và cũng cho thấy rằng cái chết lần này là cái chết rất thực tế, không giống như những sự hy sinh như trong phim Hollywood của các phiên bản trước. Họ khát khao được trở về với Lifestream, và cái chết thương tâm của Aeris không chừng là sự tiếp nối của cuộc đời cô.
    • Dư án remake Final Fantasy VII cho hệ máy PlayStation 2 đã được Square xem xét vào đầu năm 2001. Nhưng vì một vài lý do nào đó, dự án đã bị gạt bỏ và không thấy nhắc lại nữa.
    • Final Fantasy VII vào năm 2004 đã đoạt giải "Game hay nhất mọi thời đại" do thành viên của GameFAQs bình chọn, đánh gục cả người anh em cùng hãng của mình là Chrono Trigger. Tuy nhiên, trong cuộc bình chọn này lần thứ hai của GameFAQs, game đoạt giải lại là The Legend of Zelda: Ocarina of Time.
    • Game cũng đoạt hạng nhì trong cuộc bình chọn "100 game vĩ đại nhất lịch sử" của tạp chí Empire năm 2010, chỉ xếp sau Super Mario World [5]
    • Final Fantasy VII ban đầu được lập kế hoạch sản xuất cho hệ máy Nintendo 64. Tuy nhiên, do hạn chế của hệ máy này bởi việc sử dụng băng cartridge để lưu trữ dung lượng quá lớn của game cho nên sản phẩm đã được chuyển sang phát hành cho hệ máy Sony PlayStation.
    • Bản Boss Battle Theme của Final Fantasy VII có vẻ như rất giống với phút thứ nhất trong bản nhạc "Blue Rondo A La Turk"của Dave Brubeck.
    [/spoil]
     
  9. nomura

    nomura Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    3/7/09
    Bài viết:
    201
    Final Fantasy IX

    [​IMG]

    [​IMG]

    Dịch thuật: Sharius
    Biên tập: nomura
    Nguồn: http://finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_IX
    Bản dịch trên Wiki: http://vi.finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_IX

    [spoil]
    Final Fantasy IX (ファイナルファンタジーIX Fainaru Fantajī IX) là phiên bản thứ 9 của dòng game Final Fantasy, được phát hành bởi Square Soft vào năm 2000. Dưới sự chỉ đạo của Hiroyuki Itō và đồng sản xuất bởi Hironobu Sakaguchi và Shinji Hashimoto. Đây là phiên bản thứ ba và là phiên bản cuối cùng của dòng game Final Fantasy được sản xuất cho hệ máy PlayStation. Không giống như Final Fantasy VII và Final Fantasy VIII, nó không được sản xuất cho hệ máy PC. Khi mới bắt đầu phiên bản này được dự định sẽ là 1 game hoàn toàn riêng biêt, nhưng cuối cùng lại được quyết định là một trong những phiên bản Final Fantasy chính thức. Vào ngày 02 tháng 4 năm 2010, Final Fantasy IX đã được công bố trên Twitter rằng sẽ được thêm vào mạng Playstation, nó được phát hành trên PSN vào ngày 20 tháng 5 năm 2010 ở Nhật, ngày 26 tháng 5 năm 2010 ở Châu Âu và Úc, và ngày 15 tháng 6 năm 2010 ở Bắc Mỹ.

    Sau khi một số phiên bản Final Fantasy có chiều hướng khoa học viễn tưởng ngày càng tăng, Final Fantasy IX được dự định, hoặc ít nhất là tạm thời, sẽ quay lại phong cách thần thoại như những phiên bản đã ra đầu tiên của dòng game Final Fantasy. Phong cách vẽ nhân vật gần giống với thực tế của những phiên bản trước đó, được thay thế bằng một phong cách vẽ gần với hoạt hình để thể hiện tính truyền thống của trò chơi. Đáng chú ý nhất trong những ảnh hưởng của trò chơi Final Fantasy là sự xuất hiện của Black Mages, Đại diện cho nó là một trong số những nhân vật chính mà người chơi có thể điều khiển Vivi; những Black Mages khác xuất xuất hiện như là một yếu tố khá quan trọng của cốt truyện.

    Final Fantasy IX được công bố và phát triển song song với Final Fantasy X và Final Fantasy XI. Nỗ lực tiếp thị theo ba hướng dự định sẽ cung cấp cho người chơi lời hứa về những phong cách đa dạng của gameplay trong 3 trò chơi sắp được phát hành: phong cách nhập vai cổ điển trong IX, sự phát triển mượt mà hơn về phong cách và thiết kế trong X và những trải nghiệm trực tuyến trong XI. Rất nhiều người đã nghĩ rằng đây có thể là phiên bản cuối cùng của dòng game Final Fantasy bởi nó tổng hợp và có liên quan tới rất nhiều phiên bản đã được phát hành trước đó.

    Gameplay

    Cấp độ và kĩ năng
    Final Fantasy IX giữ lại hệ thống điểm kinh nghiệm và cấp độ, nhưng lần này các kỹ năng mới được học bằng cách trang bị một vật dụng dạy kỹ năng đó và kiếm đủ điểm kỹ năng (ability points) để có thể sở hữu nó vĩnh viễn, nó gần giống với việc học kỹ năng từ các Esper trong Final Fantasy VI. Tuy nhiên, trong trường hợp này, các kỹ năng vẫn có thể được sử dụng chừng nào mà món đồ dạy kỹ năng đó vẫn được trang bị cho nhân vật, ngay cả khi chúng ta chưa đủ điểm kỹ năng để sở hữu nó vĩnh viễn, một điểm nhỏ cần lưu ý nữa là các kỹ năng có thể được học nhanh hơn dựa vào việc gắn nhiều món đồ cùng dạy chung một kỹ năng cho một nhân vật; VD: Zidane sẽ học được "Long Reach" nhanh gấp đôi nếu như được trang bị "Thief Hat" và "Protect Ring" cùng một lúc. Việc học cũng được đẩy nhanh hơn nếu được gắn thêm kỹ năng "Ability Up".

    Có 2 loại kỹ năng trong Final Fantasy IX đó là: 'Hành động' (Action) và 'Hỗ trợ' (Support). Các kỹ năng hành động bao gồm: Magic,các kỹ năng vũ khí và triệu hồi Eidolons. Các kỹ năng hỗ trợ (Support Abilities) giúp nhân vật có được những trạng thái có lợi như là: chống lại một số trạng thái bất lợi (status effects) và tăng sát thương đối với một số loại quái vật nhất định. Có một giới hạn nhất định về số lượng các kỹ năng hỗ trợ được cùng lúc trang bị trên một nhân vật, được chi phối bởi các viên 'Magic Stones'. Mỗi kỹ năng hỗ trợ cần được gắn một số lượng Magic Stones nhất định, và mỗi lần lên cấp số lượng Magic stones của mỗi nhân vật lại được tăng thêm một số lượng nhất định. Rất nhiều kỹ năng có thể dạy được cho hầu hết các nhân vật, nhưng có một số kỹ năng chỉ dành riêng cho một nhân vật nhất định.

    [​IMG]
    Một trận đấu trong FFIX

    Môi trường
    Trên bản đồ thường thì người chơi điều khiển nhân vật chính là Zidane. Tuy nhiên, không như những bản game 3D khác, người chơi có thể tương tác với môi trường xung quanh khá nhiều trong Final Fantasy IX. Khi Zidane đi qua một điểm gì đó khả nghi, dấu ! hoặc ? sẽ xuất hiện trên đầu nhân vật, và người chơi có thể ấn X để tương tác với vật đó. Càng đi sâu vào câu truyện, người chơi sẽ được làm quen với rất nhiều hình thức khác nhau để có thể du hành vòng quanh thế giới của Final Fantasy IX. Như những phiên bản trước, người chơi có thể di chuyển bằng chocobo, thuyền hoặc airship. Các hình thức di chuyển này, đặc biệt là thuyền và airship, đóng một vai trò khá lớn trong cốt truyện

    Hệ thống chiến đấu
    Tiếp nối truyền thống từ Final Fantasy IV, trò chơi sử dụng hệ thống Active Time Battle (hay ATB) trong các trận đánh. Khi thanh ATB của một nhân vật nào đó đầy, nhân vật đó có thể lựa chọn đòn tấn công của mình trong trận đấu. Thường thì, kẻ địch có thể đánh bất kỳ khi nào tới lượt của chúng, tuy nhiên người chơi có thể chuyển trận đấu qua chế độ "chờ" (wait mode), chế độ này khiến cho kẻ địch không thể tấn công người chơi khi họ đang lựa chọn hành động cho nhân vật trong bảng lệnh.

    Ở Final Fantasy VII và Final Fantasy VIII, người chơi bị giới hạn chỉ với 3 thành viên trong một nhóm. Tuy nhiên ở Final Fantasy IX, trò chơi lại quay về với hệ thống nhóm 4 người truyền thống. Ngoài ra, nó còn cho phép 2 người chơi được điều khiển các thành viên do mình chọn lựa trong 1 trận chiến.

    Trance
    Được bắt đầu từ Final Fantasy VI, trò chơi kết hợp hệ thống Limit Breaks vào trong các trận đánh, mặc dù nó khác xa so với các hệ thống Limit Break trước đó. Khi một nhân vật chịu một sát thương nhất định trong một trận đấu, thanh Trance được tăng lên tương ứng. khi thanh này đầy, nhân vật đó tự động chuyển sang trạng thái Trance. Trance không chỉ thay đổi bề ngoài của nhân vật, mà còn cho phép nhân vật đó sử dụng một kỹ năng hay một hệ thống kỹ năng mà chỉ có thể được sử dụng khi trong trạng thái Trance. Đối với một số nhân vật, kỹ năng của Trance phụ thuộc vào kỹ năng họ đã được học, VD: nếu Zidane đã học kỹ năng Flee trong hệ thống kỹ năng Skills, cậu ta sẽ sử dụng được kỹ năng Free Energy trong hệ thống kỹ năng Trance Dyne của mình. Zidane là nhân vật duy nhất có thể sử dụng kỹ năng mới khi ở trong trạng thái Trance. Hầu hết các nhân vật còn lại trạng thái Trance chỉ tăng cường khả năng vốn có của họ, Ví dụ như: Vivi nhận được khả năng Double Black, cho phép sử dụng liền một lúc 2 Black Magic trong cùng một lượt. khi ở trong trạng thái Trance, khả năng tấn công của Steiner được tăng cường. Lệnh 'Summon' của Dagger được đổi thành 'Eidolon' nó không những làm tăng sức tấn công của một Eidolon mà còn làm cho Eidolon đó có thể ngẫu nhiên xuất hiện trong trận đánh chừng nào Dagger vẫn còn trong trạng thái Trance. Eiko, giống Vivi, nhận được kỹ năng 'Double White", cho phép sử dụng 2 White Magic trong cùng một lượt. Lệnh 'Jump' của Freya được tăng cường cho phép cô ta có thể ở lại luôn trên không và phi giáo xuống kẻ địch cho tới khi hết trạng thái Trance. Lệnh 'Eat' của Quina chuyển thành 'Cook', làm cho nhân vật này có thể 'ăn' kẻ địch khi thanh HP của chúng ở mức 1/4 thay vì 1/8 như bình thường. Kỹ năng "Flair" của Amarant chuyển thành "Elan" cho phép anh ta có thể lựa chọn cùng 1 lúc tất cả các mục tiêu đối với tất cả các kỹ năng cũ của "Flair" vốn chỉ có thể lựa chọn 1 mục tiêu.

    Các lớp nhân vật
    một điểm đáng lưu ý trong Final Fantasy IX chính là sự tồn tại của các lớp nhân vật, đó là thứ đã vắng mặt trong những phiên bản trước nó. Mặc dù không được quy định rõ ràng, nhưng mỗi nhân vật trong trò chơi được mặc định một lớp nhân vật nhất định được xây dựng trong các phiên bản Final Fantasy trước đó và điều đó liên quan tới các kỹ năng họ có thể sử dụng. Ví dụ: Zidane là Thief, Amarant là Monk, Quina là Blue Mage,v.v...

    [​IMG]
    Vivi - lớp nhân vật Black Mage cổ điển

    Đây cũng là một nét truyền thống của Final Fantasy IX so với những bản trước nó, tại đó nhân vật được để ra một khoảng trống khá lớn giúp cho người chơi có thể tự tùy chỉnh nhân vật theo ý mình. Ở đây, trọng tâm là xây dựng một đội ngũ của các nhân vật có điểm mạnh và điểm yếu cân bằng nhau để tạo thành một lực lượng chiến đấu hiệu quả.

    Active Time Events
    Một điểm mới cần lưu ý ở Final Fantasy IX là Active Time Events (ATE). khi của sổ ATE xuất hiện trong trò chơi, người chơi có thể ấn "select" để biết được rằng các nhân vật khác đang làm gì vào thời điểm đó, nó cho phép việc phát triển, xây dựng tính cách các nhân vật trong trò chơi sâu hơn trước đây. Mặc dù xem hay không xem ATE không hoàn toàn ảnh hưởng tới cốt truyện, nhưng nhiều đoạn trong trò chơi, người chơi vẫn bắt buộc phải xem một đoạn ATE tự động. Thỉnh thoảng người chơi có thể nhận được vật dụng hoặc Gil khi đang xem ATE. Thỉnh thoảng lại có nhiều lựa chọn được đưa ra, nếu người chơi chọn một lựa chọn, thì một đoạn ATE nào đó sẽ không được kích hoạt, điều đó có nghĩa là người chơi phải chờ tới lần chơi thứ 2 của mình mới có thể xem lại đoạn đó, mặc dù điều này không phải luôn luôn xảy ra.

    Mognet
    Trong trò chơi, Mognet là một hệ thống bưu chính được sử dụng bởi các Moogle. Khi mà người chơi đi sâu vào trong game, họ sẽ tìm thấy các Moogles sinh sống tại hầu hết những vùng trên thế giới. Khi người chơi nói chuyện với các Moogle, chúng cho phép người chơi được lưu game, hồi phục hoàn toàn HP và MP thông qua Tent, hoặc mua đồ trong Mogshop. Các Moogle có thể yêu cầu người chơi chuyển một bức thư cho các Moogle khác thông qua Mognet. Cũng có thể (mặc dù ít thường xuyên hơn) người chơi có thể nhận được một lá thư của một nhân vật khác trong trò chơi.

    [​IMG]

    Sau này trong trò chơi, các Moogles chỉ có thể yêu cầu người chơi chuyển thư bởi vì Mognet Central, nơi mà các bức thư của Moogle được phân phối, đã gặp phải một số trục trạc kỹ thuật, và kết quả là, việc phân phối thư bị gián đoạn. Sau đó người chơi có thể khám phá ra rằng trục trặc kỹ thuật đó là do một Moogle có tên là Artemicion, vì đã sử dụng hết dầu bôi trơn của các máy móc trong Mognet để trang trí cho bộ lông của mình, và làm cho chúng bị hỏng. Có rất nhiều bức thư nói về Artemicion được gửi đi giữa các Moogles lo lắng về việc cậu ta lạm dụng loại dầu đó, trò chơi gọi nó là "Super Slick". Tuy vậy, cũng có nhiều bức thư tỏ ý ngưỡng mộ bộ lông mượt mà của Artemicion. Người chơi có thể có lựa chọn để giúp các Moogles khôi phục lại Mognet Central thông qua một nhiệm vụ phụ tuyến, nhưng nó chỉ xảy ra nếu người chơi chuyển hết toàn bộ số thư đó.

    Bối cảnh

    [​IMG]
    Thế giới Gaia

    Thế giới trong Final Fantasy IX được gọi tên là Gaia, được chia ra làm 4 lục địa chính:

    * Mist Continent, đây là lục địa đầu tiên mà bạn bắt đầu chơi và hầu hết các sự kiện chính trong trò chơi diễn ra ở đây.
    * Forgotten Continent, lục địa lớn nằm ở phía tây, bạn chỉ có thể tới đây bằng phương tiện bay.
    * Lost Continent, nằm ở phía tây bắc, ngay phía trên Forgotten Continent, toàn bộ lục địa bao phủ bởi băng.
    * Outer Continent, nằm ở phía bắc của Mist Continent, phần lớn bề mặt của nó là hoang mạc khô cằn.

    Nhân vật

    * Zidane Tribal: Nhân vật chính của trò chơi. Anh ta là một tên trộm (Thief), thành viên của nhóm Tantalus, một gã chuyên đi tán tỉnh phụ nữ.
    * Garnet til Alexandros XVII: Nhân vật nữ chính của trò chơi, cô là một Summoner, so với một Summoner khác trong nhóm thì khả năng của cô chú trọng vào việc triệu hồi các linh thú hơn là các phép thuật cứu thương (white magic) và là công chúa của lâu đài Alexandria.
    * Vivi Orunitia: một Black Mage trẻ, và khá ngây thơ.
    * Adelbert Steiner: Là một Knight của lâu đài Alexandria, và là đội trưởng của đội Knights of Pluto.
    * Freya Crescent: cô là một công dân xứ sở Burmecian, là một Dragon Knight đang đi tìm kiếm người yêu bị mất tích của mình.
    * Quina Quen: Một thành viên của bộ tộc Qu, là một Blue Mage gia nhập nhóm với hi vọng sẽ được thưởng thức tất cả món ăn ngón trên thế giới.
    * Eiko Carol: một Summoner trẻ, khác với Garnet til Alexandros XVII phép thuật của cô chú trọng vào white magic hơn là triệu hồi, và là một trong số những người cuối cùng còn sót lại của bộ tộc mình.
    * Amarant Coral: Là một Monk và đồng thời cũng là một tên cướp bị truy nã, anh ta có một số vấn đề riêng tư cần giải quyết với Zidane.

    [​IMG]
    Nhân vật chính của FFIX

    Cốt truyện

    [spoil]
    Tại một thế giới được biết tới với tên gọi là Gaia, nữ hoàng Brahne Raza Alexandros XVI của vương quốc Alexandria trở nên thèm khát quyền lực, bà ta tìm mọi cách để mở rộng vương quốc của mình bằng cách không ngừng tấn công các vùng đất lân cận. Chính sự thèm khát này của nữ hoàng đã khiến Alexandria vốn là một quốc gia hòa bình bắt đầu tiến hành các cuộc chinh phạt. Chiến tranh nổ ra giữa các vương quốc trên lục địa Mist Continent. Garnet til Alexandros XVII, con gái nuôi của nữ hoàng Brahne, lo lắng vì sự thay đổi của nữ hoàng ngoài ra cô liên tục gặp phải những cơn ác mộng về một cuộc hành trình khó khăn trên biển hay là một con mắt lớn và khủng khiếp theo dõi cô từ trên bầu trời. Vivi Orunitia, một Black Mage, trẻ và cô đơn, khao khát được biết về xuất thân của mình và tại sao cậu ta tồn tại. Tất cả số phận bọn họ được mang đến gần nhau trong một buổi trình diễn ca kịch tưởng chừng như thanh bình tại lâu đài Alexandria, buổi diễn sẽ khởi đầu cho vòng quay định mệnh với những sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát và cả sự thật về bản thân họ cũng như những người bạn của mình.

    Câu truyện bắt đầu khi Regent Cid của lâu đài Lindblum lo lắng cho số phận của cháu gái mình là công chúa Garnet, vì vậy ông ta thuê nhóm Tantalus đi tới Alexandria, Tantalus là một băng trộm cải trang thành các diễn viên kịch để che dấu cho kế hoạch của mình, để bắt cóc công chúa Garnet. Nhân vật nổi bật nhất trong nhóm Tantalus ,và là nhân vật chính của trò chơi, tên là Zidane Tribal. Tuy nhiên, chính công chúa Garnet cũng muốn trốn chạy khỏi người mẹ độc ác của mình, và cô đã tự nguyện để bị bắt cóc. Trong khi kế hoạch tưởng chừng như trôi chảy thì Vivi và Adelbert Steiner, đội trưởng của đội cận vệ hoàng gia Knights of Pluto và đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm bảo vệ cho Garnet, cũng bị dính líu vào, bởi vì sự can thiệp của Steiner. Toàn bộ kế hoạch bị phá hỏng, toàn bộ nhóm Tantalus phải bỏ qua kế hoạch của mình và chạy trớn khỏi Alexandria. Con tàu của họ, Prima Vista, bị trúng đạn và rơi xuống Evil Forest.

    [​IMG]
    Lâu đài Alexandria

    Zidane quyết định sẽ đưa công chúa tới Lindblum bằng đường bộ, và anh bị đuổi khỏi nhóm Tantalus bởi người đứng đầu nhóm, Baku, vì ông ta không đồng tình với kế hoạch của anh ta. Vivi và Steiner tham gia cùng Zidane giải cứu Garnet từ các sinh vật ăn thịt của khu rừng Evil Forest và chạy trốn khỏi khu rừng, bỏ lại phía sau nhóm Tantalus. Bộ tứ băng qua Ice Cavern, tại đó Zidane đánh bại Black Waltz No. 1, tay sai của Brahne. Đến làng Dali, Garnet chọn một cái tên khác là "Dagger" để có thể hòa mình cùng những người dân thường.Tại làng Dali, Vivi bị bắt cóc bởi những người dân bản địa, và cả nhóm cảm thấy choáng váng sau khi họ giải thoát cho cậu và khám phá ra rằng dân làng đang chế tạo Black Mages từ Mist, và chuyển cúng tới Alexandria. Garnet bắt đầu có ý định muốn quay trở về Alexandria để hỏi mẹ mình về việc bà ta có dính líu gì với việc sản xuất các Black Mage, và Steiner ủng hộ quyết định đó. Sau khi hạ gục Black Waltz No. 2, họ lên chuyến tàu vận tải được điều khiển bởi các Black Mages vô hồn, nhưng rồi sớm bị tấn công bởi Black Waltz No. 3. Vivi, Zidane, và Steiner đối mặt với kẻ tấn công, để cho Garnet cầm lái con tàu và tự quyết định đích đến tiếp theo. Công chúa hơi do dự,nhưng cuối cùng quyết định đi tới Lindblum, kết quả trong một chuyến bay bất thường qua South Gate.

    Cả nhóm gặp Cid, người đứng đầu lâu đài Lindblum, ông ta không chấp nhận cử quân đội tấn công Alexandria, vì lo ngại rằng điều đó sẽ để lại đường biên giới của mình không được bảo vệ. Trong khi ở Lindblum đang tổ chức Festival of the Hunt, quân đội của Brahne bắt đầu tiến sâu vào lãnh thổ Burmecia, quê hương của Freya Crescent, một người bạn cũ của Zidane. Zidane quyết định cùng với Freya, người mà cậu ta gặp lại trong Festival of the Hunt, và Vivi đi tới Burmecia để tìm hiểu kỹ hơn về tình hình xảy ra, Cid ra lệnh cho Garnet phải ở lại Lindblum. Để phản đối điều đó, cô ta đánh thuốc mê toàn bộ những người trong buổi tiệc và trốn về Alexandria cùng Steiner qua South Gate. Những người còn lại quyết định đi tới Burmecia, họ đi qua hang Gizamaluke's Grotto và đồng thời Quina Quen gia nhập nhóm họ dọc đường đi. Ngay khi đến Burmecia, họ tìm thấy một thành phố hoang tàn đổ nát gây ra bởi Brahne. Tại trung tâm của thành phố, họ chạm trán nữ hoàng, một kẻ bí ẩn có tên là Kuja, và General Beatrix. General Beatrix đánh bại toàn bộ nhóm của Zidane, và quân của Alexandria tiếp tục hành trình tới vương quốc Cleyra.

    [​IMG]
    Đòn hủy diệt của Odin​

    Trong khi đó, Garnet và Steiner nghỉ lại tại thành phố Treno, và với sự giúp đỡ của Doctor Tot, họ sử dụng đường hầm Gargan Roo để quay về Alexandria. Khi vừa tới nơi, Garnet đi gặp ngay mẹ mình, bà ta hạ lệnh tống giam công chúa và ra lệnh tách các Eidolons khỏi Garnet để sử dụng cho những cuộc xâm lược sắp tới. Một trong số những linh thú đó, Odin, được sử dụng để xóa sổ Cleyra, nhưng trước đó Beatrix đã lấy đi viên ngọc từ cây đàn bảo vật của Cleyra. Nhóm của Zidane đã đột nhập lên tàu Red Rose để quay về Alexandria. Họ gặp lại Steiner và giải cứu Garnet khỏi sự cầm tù của Brahne, với sự giúp đỡ của Beatrix, sau khi đã giác ngộ. Zidane, Vivi, và Garnet cố gắng sử dụng hệ thống Gargant để quay về Treno, nhưng họ bị cản trở bởi quái vật và bị rơi xuống Pinnacle Rocks. Sau khi vượt qua cuộc kiểm tra củaRamuh, cho phép Garnet có thể triệu hồi Ramuh, cả ba đã chứng kiến cảnh Lindblum bị san bằng bởi một Eidolon khác của Alexandria, Atomos. Đột nhập vào thành phố bị chiếm đóng, Zidane và Garnet bí mật tìm gặp Cid, ông ta gợi ý cả nhóm đi tới Outer Continent để tìm hiểu động cơ đằng sau các hành động của Brahne. Quina chứng tỏ được sự hữu dụng của mình khi tình cờ khám phá ra đường hầm dẫn tới Outer Continent, Fossil Roo, trong khi mải đuổi theo món ăn ưa thích của mình là ếch.

    Cả nhóm suy đoán rằng việc đột ngột thay đổi thái độ của nữ hoàng Brahne là bởi sự điều khiển của Kuja, kẻ đang có kế hoạch để thống trị cả thế giới. Tại lục địa Outer Continent, Zidane và nhóm của mình gặp Eiko Carol, cô bé là người cuối cùng còn sống sót của bộ tộc Summoner, tại nhà của cô ở Madain Sari. Cô dẫn họ tới Iifa Tree, đó là nơi được báo cáo là đã nhìn thấy Kuja, Cả nhóm tiến sâu vào trong trung tâm của cái cây, cho tới khi họ chạm phải một cái hồ màu xanh phát ra ánh sáng lung linh và dường như sâu vô tận tại nơi có vể như là gốc của Iifa Tree. Quái vật SoulCage xuất hiện, tự nhận mình là kẻ tạo ra Mist. Sau khi nó bị tiêu diệt, toàn bộ Mist trên lục địa Mist Continent biến mất, cả nhóm quay lại Madain Sari. Sau khi đẩy lùi cuộc tấn công của Lani thu phục Amarant Coral, họ quay trở lại Iifa Tree vì nhận được tin là Kuja vừa mới xuất hiện tại đó. Ở đây, họ bắt gặp nữ hoàng Brahne và hạm đội của bà ta đang đổ bộ lên bãi biển Iifa, Kuja cưỡi trên con rồng bạc của mình đang đối đầu với bà ta. Brahne triệu hồi Bahamut để loại bỏ Kuja và một mình độc chiếm toàn bộ các lãnh thổ, lộ bộ mặt thật của mình, Kuja gọi ra một con tàu kỳ lạ có tên là Invincible và nhờ nó nắm lấy quyền điều khiển Bahamut, sau đó sử dụng nó để tiêu diệt toàn bộ đội quân của Brahne bằng một chiêu Mega Flare khủng khiếp.

    [​IMG]
    Alexander đối đấu Bahamut

    Trên bãi biển, Brahne cuối cùng cũng nhận ra được lỗi lầm của mình và xin lỗi Garnet, nhưng bà ta lại qua đời ngay sau đó, để lại cho công chúa một sự đau khổ vô hạn. Garnet bây giờ trở thành nữ hoàng của Alexandria. Buổi lễ đăng quang của cô diển ra không được lâu, vì Kuja đột ngột xuất hiện tại thành phố và triệu hồi Bahamut ra san bằng toàn bộ Alexandria. Cả nhóm bay từ Treno tới tiếp viện trên con tàu của Cid, và Eiko giúp Garnet triệu hồi Alexander, Eidolon có trách nhiệm bảo vệ Alexandria. Alexander tiêu diệt Bahamut, một người đàn ông bí ẩn đã xuất hiện trên con tàu Invincible và tiêu diệt Alexander cũng như phần còn lại của thành phố. Garnet cảm thấy choáng váng khi nhìn toàn bộ thành phố bị tiêu diệt, chính điều này làm cho cô tạm thời không thể nói được. Tất cả mọi người tạm thời trú ẩn tại Lindblum, tại đây Cid đã thiết kế con tàu Blue Narciss và đưa nó cho cả nhóm. họ tiếp tục truy đuổi Kuja tới nơi trú ẩn của hắn ở Desert Palace, nhưng lại bị Kuja bắt giam. Kuja buộc Zidane và 3 thành viên nữa phải bay tới Forgotten Continent và đem viên đá Gulug Stone về từ Oeilvert. Đó là một di tích chứa rất nhiều hình ảnh và di vật có liên quan tới nền văn minh Terran, bao gồm cả Eidolon cổ đại, Ark, cả nhóm phải đánh bại nó để có thể lấy được viên đá.

    Trong khi đó, Cid và bốn thành viên còn lại đã tìm cách trốn thoát khỏi nơi giam giữ và vô hiệu hóa hệ thống bảo vệ của lâu đài là Valia Pira. Tuy vậy, Kuja vẫn lừa được Zidane trao lại cho hắn Gulug Stone và trốn thoát đồng thời bắt cóc Eiko đưa tới Mount Gulug. Toàn bộ nhóm đã lần theo dấu vết của hắn tới Esto Gaza, và chứng kiến cảnh Zorn và Thorn cố gắng tách các Eidolon ra khỏi Eiko. Để bảo vệ Eiko, Mog, thú cưng của Eiko, đã phải xuất hiện với hình dạng thật của mình true Eidolon form thông qua trạng thái Trance, với sự giúp đỡ đó, họ đã đánh bại 2 tên hề và giải thoát Eiko. Chứng kiến sức mạnh khủng khiếp của Trance, Kuja đã vạch ra một kế hoạch mới: thu thập một số lượng lớn các linh hồn để có thể chuyển sang được trạng thái Trance vĩnh viễn. Hắn bỏ trốn, nhóm của Zidane tìm thấy Queen Hilda, vợ của Cid, đang bị Kuja giam giữ tại đó và hộ tống bà ta về Lindblum. Bà ta biến lại Cid về hình dạng con người, và người đứng đầu Lindblum hoàn thành bước cuối cùng trong bản thiết kế một mẫu airship mới của ông ta, Hilda Garde III. Garnet quay trở lại Alexandria, tại đó mọi người vẫn tyroong đợi cô sẽ lãnh đạo họ trong vai trò một nữ hoàng. Khi Zidane đi theo cô, cô khôi phục lại từ trạng thái mất tiếng tạm thời của mình, cô lấy con dao của Zidane và tự mình cắt đi mái tóc dài của mình với lời hứa sẽ tiếp tục chiến đấu vì nhân dân và người mẹ nuôi đã mất của mình.

    [​IMG]

    Nữ hoàng Hilda kể cho cả nhóm nghe về tham vọng của Kuja và những kiên hệ của hắn với một nơi có tên gọi là Terra, đồng thời chỉ cho họ tới một nơi có tên gọi là Ipsen's Castle trên lục địa Forgotten Continent. Trong tòa nhà kỳ lạ này, mọi thứ đều bị đảo ngược hoàn toàn, dưới lên trên và trên xuống đưới, họ tìm được 4 mảnh chìa khóa dùng để mở khóa lối vào Terra. Sau khi đánh bại quái vật canh giữ Taharka và giải cứu Amarant đang bị thương trong này vì sự kiêu ngạo của mình, Zidane quyết định phân chia nhóm ra làm 4, 2 người một sẽ mỏ phong ấn một đền thờ nguyên tố. Sau khi đánh bại bốn kẻ bảo vệ đền thờ, hòn đảo Shimmering Island xuất hiện, đó là cánh cổng băng dẫn tới thế giới Terra.

    Con tàu Hilda Garde III đưa mọi người tới Terra, và một cô gái bí ẩn xuất hiện dẫn dắt tất cả tới ngôi làng của những Genome tại Bran Bal. Cô ta tên là Mikoto, đồng thời tiết lộ sự thật đằng sau mối quan hệ giữa Kuja đối với Zidane: họ đều được tạo ra với sứ mệnh hủy diệt (Angels of Death). Garland, kẻ chủ mưu chính trong chuyện này, bắt giam Zidane và dự định sử dụng anh ta cho mục đích thực sự của mình là gieo rắc sự hủy diệt lên Gaia. Bạn bè của Zidane giải thoát cậu từ nơi giam cầm tại Pandemonium và đối mặt với Garland, ông ta sử dụng Silver Dragon như một lá chắn trước khi bị hạ gục hoàn toàn bởi cả nhóm. Trong lúc mọi người đang bận chất vấn Garland về các kế hoạch của ông ta, Kuja đã lợi dụng thời điểm đó để cướp lấy quyền điều khiển con tàu Invincible. Hắn xuất hiện trước mặt cả nhóm trong trạng thái Trance, có được bằng việc hút lấy toàn bộ những linh hồn bị giam giữ trong con tàu Invincible. Kuja hạ gục toàn bộ nhóm bằng một chiêu Ultima và công bố âm mưu chính thức của mình: thống trị toàn thế giới. Garland, trong thời khắc cuối cùng của mình, cảnh báo Kuja sức mạnh của hắn là vô nghĩa; Kuja phản ứng lại bằng cách đá ông ta xuống bờ vực của Pandemonium chấm dứt hoàn toàn cuộc sống của ông ta.

    Tuy nhiên, Garland vẫn ngoan cố, và từ đằng sau nấm mộ của mình, ông ta nói với Kuja rằng sức mạnh mới của hắn ta là hoàn toàn vô giá trị; cái chết của hắn đang tới ngày một gần. Kuja không còn thỏa mãn với giấc mơ thống trị thế giới nữa; hắn trở nên điên dại, và nuôi ý định sẽ hủy diệt nguồn gốc của mọi sự sống trên thế giới: viên pha lê sự sống (Crystal). Hắn bắt đầu bằng việc xỏa sổ hành tinh Terra bằng từng đợt Ultima với sức hủy diệt khủng khiếp, nhưng cả nhóm cùng những Genomes may mắn trốn thoát khỏi sự hủy diệt bằng cách cướp lấy con tàu Invincible và lái nó qua cổng dịch chuyển ở Shimmering Island quay trở lại Gaia. Họ đột nhiên chú ý tới sự bao phủ trở lại của Mist trên toàn bộ Gaia, xuất phát một lần nữa từ Iifa Tree. Trên đỉnh của cái cây là cổng vào của Memoria, đó là nới chứa đựng toàn bộ ký ức cảu Gaia, và Kuja cũng đang đợi cả nhóm trong đó. Quân đội của Alexandria và Lindblum liên minh với nhau để đẩy lùi các đợt tấn công từ những con rồng (Silver Dragons) có nhiệm vụ chặn lối vào cổng Memoria, và Invincible xông thẳng qua hàng rào phòng thủ, mang mọi người tiến vào Memoria. Trong khi tiến sâu vào Memoria họ đã chạm chán và đánh bại những quái vật do Kuja tạo ra dùng để đối phó lại với những kẻ bảo vệ của viên Crystal, trong khi lại chứng kiến những khoảnh khắc đáng nhớ nhất của cuộc đời mình đồng thời những khoảnh khắc của chính Gaia. Giọng nói của Garland đã dẫn đường cho họ vượt qua toàn bộ các khu vực trong Memorial tới cánh cổng dẫn vào Crystal World, đó là một nơi không tồn tại thời gian và không gian; đó là nơi chứa đựng toàn bộ các ký ức của toàn bộ các sinh vật khởi nguồn từ viên Crystal.

    [​IMG]

    Zidane và những người bạn của mình tiến sâu vào Crystal World và dối mặt với Kuja trong một trận chiến nảy lửa, dường như Kuja dường như hạ gục toàn bộ mọi người với chiêu Ultima. Sống sót sau cuộc chiến, Kuja phá hủy viên Crystal, chính điều đó đã đánh tức một sinh vật có tên là Necron, hắn tự xưng là một vị thần tồn tại để "xóa sổ hoàn toàn mọi thứ về hư vô". Với sự giúp sức từ 4 người bạn của mình, Zidane và 3 người nữa đã hạ gục Necron, Kuja đưa 8 người ra Memoria và để họ bên ngoài Iifa Tree. Hầu hết cả nhóm trở lại Alexandria trên con tàu Hilda Garde, trong khi Zidane ở lại để tim Kuja. Cậu ta tìm thấy người anh em của mình bị kẹt trong Iifa, trong khi Kuja sám hối cho tội lỗi của mình, Iifa trong khoảnh khắc cuối cùng của nó đã cuốn họ lại bằng những cái rễ của mình. Tất cả tin rằng Zidane đã chết, và Garnet, bây giờ trở thành nữ hoàng chính thức của Alexandria, rơi vào trạng thái trầm cảm. Trong những giây phút cuối cùng của trò chơi, nhóm Tantalus lại xuất hiện và trình diễn vở "I Want to Be Your Canary" trong ngày sinh nhật của Garnet. trong vở kịch, một vai diễn mặc một bộ áo trùm kín người vốn là vai do Marcus diễn đã cởi bỏ bộ áo choàng và để lộ ra mình là Zidane. Toàn bộ thành phố Alexandria reo hò, những người bạn cũ cổ vũ từ trên ccs khán đài, và nữ hoàng băng qua đám đông và nhảy vào vòng tay của Zidane.

    [/spoil]

    Âm nhạc
    Final Fantasy IX là bản Final Fantasy với âm nhạc được sáng tác duy nhất bởi Nobuo Uematsu. Và đó cũng là những tác phẩm mà ông cảm thấy hài lòng nhất của mình, tất cả bản nhạc trong trò chơi được tổng hợp có khoảng 110 bản, và trong những đĩa nhạc phát hành riêng được cho thêm vào hơn 42 bản nhạc mới. Rất nhiều người suy đoán rằng lý do Uematsu không còn biên soạn nhạc game một mình kể từ sau trò chơi này là bởi vì ông đã làm việc quá sức. Bất kể điều đó, rất nhiều năm sau khi phát hành trò chơi, Uematsu đã tuyên bố nhiều lần và không hề do dự rằng toàn bộ trò chơi cũng như những sáng tác của ông trong đó là cái mà ông yêu thích nhất trong tất cả các tác phẩm từ trước tới nay.

    Hầu hết các tác phẩm trong trò chơi được sáng tác dựa trên giai điệu J-pop ballad, Melodies of Life, được sáng tác bởi Uematsu và biểu diễn bởi Emiko Shiratori. Bài hát chính nó được hát bằng tiếng Nhật cho bản phát hành tiếng Nhật của trò chơi, và bằng tiếng Anh, trong phiên bản phát hành tại Bắc Mỹ và châu Âu của trò chơi.

    Những lời ám chỉ
    Final Fantasy IX được dự định, bằng nhiều cách, dùng để tưởng niệm lại lịch sử của dòng game này, vì nó có rất nhiều điểm tương đồng với tất cả các bản Final Fantasy đã ra trước nó. Một điều dễ nhận thấy nhất chính là nhân vật Vivi được dựng lại hoàn toàn dựa trên mẫu Black Mage từ bản Final Fantasy gốc. Tuy nhiên, mặc dù được chăn chút khá kỹ càng trong khâu dịch thuật, nhưng không phải tất cả các điểm tương đồng với các bản Final Fantasy trước đều được dịch vào bản tiếng anh của trò chơi. Bởi vì điều đó, rất nhiều điểm thú vị đã bị bỏ qua bởi những người không chơi được bản tiếng Nhật.

    Ngoài lề
    * Ý tưởng làm lại Final Fantasy IX trên hệ máy PlayStation 2 được đặt ra trong nội bộ Square vào đầu năm 2001, chỉ 1 năm sau khi nó được phát hành chính thức. Tuy nhiên vì nhiều lý do, dự án đã bị bác bỏ hoàn toàn, tương tự như các dự án cho Final Fantasy VII và Vagrant Story được xét cùng một thời điểm nhưng lại chịu chung một số phận.
    * Vào tháng 5 năm 2009, trang web IGN đã phỏng vấn Yoshinori Kitase và Takeshi Arakawa. Trong suốt buổi nói chuyện, Arakawa thổ lộ rằng anh muốn làm một phần tiếp theo cho Final Fantasy IX hơn bất kỳ một game nào khác. [1]
    * Final Fantasy IX là bản Final Fantasy duy nhất cho đến này với logo không được thiết kế bởi Yoshitaka Amano.
    * Final Fantasy IX có dàn nhân vật đa dạng nhất trong toàn bộ các phiên bản, nó chỉ có 2 người bình thường trong nhóm (Steiner và Amarant) tất cả những thành viên còn lại trong nhóm đều thuộc những chủng tộc khác nhau.
    * Final Fantasy IX có thể cho phép 2 người cùng điều khiển các nhân vật trong một trận đánh, mặc dù điều này không được nhắc tới trong sách hướng dẫn.
    * Final Fantasy IX là bản Final Fantasy được Hironobu Sakaguchi yêu thích nhất, ông nói rằng "nó rất gần với một thế giới lý tưởng mà ông muốn nhìn thấy trong các phiên bản Final Fantasy".
    * Final Fantasy IX được nhắc tới nhiều nhất trong trò chơi Dissidia Final Fantasy, dễ nhận thấy nhất là Mognet. Người ta cũng cho rằng thời kỳ đỉnh cao của các Moogles là ở Gaia.

    Bìa đĩa

    [​IMG] [​IMG] [​IMG]
    Nhật, Mỹ và châu Âu
    [/spoil]
     
  10. Nomurasan

    Nomurasan Zael ♥ Calista Moderator Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    17/1/08
    Bài viết:
    14,902
    Final Fantasy VIII

    [​IMG]

    [​IMG]

    Dịch:
    Biên tập: Nomura
    Nguồn: http://finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_VIII
    bản dịch wiki: http://vi.finalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_VIII

    [spoil]

    Final Fantasy VIII là phiên bản thứ 8 của loạt game Final Fantasy. Trò chơi được đạo diễn bởi Yoshinori Kitase, viết kịch bản bởi Kitase và Kazushige Nojima, và sản xuất bởi Hironobu Sakaguchi và Shinji Hashimoto. Đây là bản Final Fantasy thứ hai được phát triển cho cả hệ PlayStation và PC. Game xuất hiện trên Play Station Network như một game cổ điển của PSone tại Nhật vào 24/9 năm 2009; tại Bắc Mĩ vào ngày 18/12 năm 2009 và tại châu Âu vào ngày 4/2 năm 2010. Mười ba tuần sau khi phát hành, Final Fantasy VIII đã thu về trên 50 triệu đô la tại Mĩ, trở thành tựa game Final Fantasy bán nhanh nhất. Thêm vào đó, Final Fantasy VIII được bình chọn là game thứ 22 hay nhất mọi thời đại bởi độc giả tạp chí Famitsu của Nhật. Final Fantasy VIII trở thành một trong trong những game bán chạy nhất trong loạt game với doanh số toàn cầu trên 8.15 triệu bản vào ngày 31/3 năm 2003. Final Fantasy VIII có sự khác biệt so với những phiên bản truyền thống của game. Là bản Final Fantasy đầu tiên quyết định dùng các nhân vật với tỉ lệ người thật, Thêm nữa, game không có MP ( Magic Point) cho việc dùng phép. Thay vào đó, phép thuật được thu thập, hút và tạo ra từ các quái vật và item bắt gặp xuyên suốt game, và nó được dùng để tăng sức mạnh nhân vật qua hệ thống Junction.

    [​IMG]
    Menu chính

    Gameplay

    Gameplay của Final Fantasy VIII thật sự khác biệt so với các phiên bản trước. Draw và Hệ thống Junction là những thay đổi đáng kể. Thay vì đi tăng level để học phép mới và khả năng mới qua vũ khí hay các lớp nghề nghiệp (job), người chơi phải hút (draw) phép từ kẻ địch và các Draw Point, các điểm này nằm rải rác suốt game với số phép hút được ngẫu nhiên. Việc này đã làm cho MP không còn cần thiết, nhưng lại khuyến khích người chơi tích trữ và bảo toàn các phép cho cả khi sử dụng và khi Junction chúng với các chỉ số liên quan với các Guardian Force – Lực Lượng Bảo Hộ, yếu tố quyết định việc học khả năng mới.

    [​IMG]
    Một trận đấu trong FFVIII

    Guardian Force
    Các quái vật có thể triệu hồi trong Final Fantasy VIII được gọi là Guardian Force, thường gọi là GF. Chúng cần phải được Junction (kết nối) với nhân vật để có thể sử dụng, cùng các khả năng vốn có của chúng. Không như các bản trước, GF cần có thời gian để gọi ra, và thời gian gọi phụ thuộc vào việc "tương thích" giữa nhân vật và GF. Khi được chọn, thanh ATB bắt đầu chạy lùi và tên nhân vật và HP được thay bằng tên và HP của GF. Tương tự như Aeon trong phiên bản Final Fantasy X, GF có HP và có thể bị tấn công, có thể đỡ đòn cho người chơi trong khi đang được gọi ra. Trong quá trình gọi ra, nếu HP của GF trở về 0, chúng bị hạ và việc gọi sẽ ngừng. Sau đó không thể gọi lại tới khi chúng được hồi sinh. Mặt khác, nếu ATB của GF chạy hết thì GF được gọi ra và tấn công với theo kiểu trong Final Fantasy VII. Nếu GF gọi ra được học tính năng Boost, người chơi có thể tăng sức đánh của GF lên tới 250%, nhưng việc nâng này có thể dừng trong khoảng 75% tới 250% sức tấn công bình thường của GF. Cách tính của Boost là : sức sát thương của đòn tấn công x (số Boost có được/100), vì vậy nếu Boost dưới 100, sức đánh của GF bị giảm. GF cũng nhận được AP để học các kĩ năng mới. Mỗi GF có một số kĩ năng riêng, các item hiếm có thể cho người chơi tùy biến các kĩ năng của GF. Phần lớn các tính năng đều yêu cầu phải junction GF với nhân vật, nhưng một số cần việc junction với nhân vật để có hiệu lực. Mỗi GF đều có các kĩ năng mà khi học có thể xếp vào bảng lệnh chiến đấu của game. Hai GF đầu tiên có được vào đầu game (sau khi nói chuyện với Quistis ở cổng trường). Những GF khác có thể lấy qua các nhiệm vụ phụ hoặc draw từ các con trùm trong game. Chỉ có 3 GF được cho tự động, những con khác là tùy chọn.

    [​IMG]
    Hệ thống Junction

    Junction
    Hệ thống Junction là hệ thống dùng để tăng chỉ số của nhân vật và tạo ra các nguyên tố/trạng thái lên vũ khí và áo giáp. Người chơi phải junction một GF để có thể dùng thêm các lệnh khác trong bảng tấn công ngoài lệnh Attack. Việc nâng chỉ số yêu cầu người chơi phải thu được các phép, bằng cách hút từ kẻ thù và các Draw Point và bằng cách chế lại từ các item bằng khả năng của GF. Người chơi có thể Junction phép vớiới các chỉ số như Strength (Sức mạnh), Vitality (Sức sống), Evasion (Né tránh) và Hit-Rate (Tỉ lệ đánh trúng). Mỗi chỉ số có thể tùy chỉnh tùy vào GF được junction. GF có thể học để mở thêm các chỉ số có thể junction phép thuật bằng cách đạt được điểm kĩ năng - AP trong trận đánh, và bằng cách dùng các item cho GF.

    Kinh nghiệm và lên cấp
    Tương tự như các game nhập vai khác, điểm kinh nghiệm - Exp là phần thưởng sau khi đánh bại các quái vật xuất hiện ngẫu nhiên. Hệ thống tăng level của Final Fantasy VIII có điểm khác biệt với 2 lý do: mỗi nhân vật chỉ cần 1000 điểm EXP để đạt cấp tiếp theo, trong khi các trò khác cần thêm nhiều điểm hơn để đạt tới level kế tiếp. Các chỉ số gia tăng khi lên level là rất nhỏ, thay vào đó việc phát triển chỉ số được giao cho hệ thống Junction.

    Tính năng khác là kẻ thù và các con trùm không có cấp độ cụ thể (mặc dù các trùm có "mức cấp độ" nhất định); chúng tăng HP, các chỉ số và các kĩ năng theo người chơi. Kẻ thù cấp cao hơn có khả năng gây ra và chịu được nhiều sát thương hơn, và chúng có thêm những đòn tấn công đặc biệt. Ở level cao, chúng cũng có những phép thuật "xịn" hơn để draw hay những item tốt hơn để người chơi "chôm chỉa". Lợi ích của hệ thống này là giữ nhân vật ở level thấp thì kẻ thù và trùm trong game sẽ yếu hơn nhiều về sau, kết quả là xuất hiện kiểu chơi thử thách “không tăng level”.

    Thêm nữa, vì phần lớn những địa điểm trong game được người chơi qua lại nhiều lần trong cốt truyện và nhiệm vụ phụ, những kẻ thù xuất hiện sớm sẽ mạnh theo nhóm người chơi và vẫn có thể là mối đe dọa sau này. Có những địa điểm không có những loại quái theo cách tăng cấp đó, đáng kể là Islands Closest to Heaven and Hell, những nơi mà tất cả các sinh vật đều ở cấp độ 100 không phụ thuộc cấp độ của nhân vật là bao nhiêu, và Fire Cavern, Lunatic Pandora, nơi mà tất cả sinh vật đều ở cấp độ 1.

    [​IMG]
    Renzokuken (Liên hoàn kiếm) của Squall

    Limit Breaks
    Tính năng Limit Break nhận được sự thay đổi lớn so với các phiên bản trước. Hệ thống này giống với những đòn Desperation Attack trong Final Fantasy VI, nhưng giờ đây người chơi có thêm khả năng kiểm soát khi nào và Limit nào sẽ tung ra. Limit Break làm nhân vật thực hiện các chiêu tấn công đặc biệt, xuất hiện khi HP của nhân vật ở mức màu vàng hoặc dùng một phép thuật đặc biệt – Aura – cho phép dùng Limit ngay cả khi đầy máu ( nếu không thấy xuất hiện mũi tên chuyển sang bảng LB thì nháy 2 nút cò L, R bên trên tay cầm máy PS1). Mỗi nhân vật có những Limit Break riêng biệt, phù hợp với phong cách mỗi nhân vật và đi kèm bởi nguyên tố ảnh hưởng, khi hành động đúng lúc, có thể tăng hiệu quả của chiêu thức (bấm nút cò bên trên tay cầm L, R). Renzokuken của Squal, Shot của Irvine và Duel của Zell, nếu nhấn chính xác, có thể xem như những Limit Break mạnh nhất trong cả loạt game.

    [​IMG]
    Limit Break của Rinoa

    Triple Triad
    Trao đổi thẻ bài, gọi là Triple Triad, là nét đặc trưng trong Final Fantasy VIII. Minigame này sau đó được tiếp nối trong FFIX với tên gọi Tetra Master. Triple Triad có thể biển đổi từ đơn giản đến cực kỳ phức tạp. Những luật lệ và mức độ biến đổi trong khi chơi phụ thuộc vào khu vực mà người chơi đang đứng. Và để cho luật chơi trở nên phức tạp hơn, luật lệ trong 1 khu vực có thể được mang đến khu vực khác. Do vậy người chơi sẽ phải cẩn thận trong việc lựa chọn luật lệ khi chơi. Thẻ bài lấy được từ quái vật hay từ những người chơi NPC có thể chuyển đổi thành nhiều loại item nhờ khả năng Card Mod của GF Quezacolt, rồi từ Item đó tạo ra hầu hết các phép thuật mạnh trong game. Thẻ bài cũng có thể được thu thập bằng cách sử dụng lệnh Card của GF Quezacolt để biến quái vật thành thẻ bài.

    Nhân vật

    [​IMG]
    Artwork của Yoshitaka Amano

    Final Fantasy VIII có 11 nhân vật điều khiển được, 6 trong số đó được dùng phần lớn trong game, 3 trong số đó được dùng xen kẽ, và 2 nhân vật điều khiển tạm thời. Các nhân vật chính:

    * Squall Leonhart – Người hùng trầm mặc và bất đắc dĩ. Vũ khí của anh là cây Gunblade Revolver.
    * Rinoa Heartilly – Một cô gái trẻ tính cách sôi nổi nhiệt tình.
    * Quistis Trepe – Một SeeD tài năng và là người hướng dẫn của Squall.
    * Zell Dincht – Một học viên với khả năng võ thuật cừ khôi và tính tình nóng nảy.
    * Selphie Tilmitt – Một cô gái năng động và hồn nhiên.
    * Irvine Kinneas – Một tay súng thiện xạ và khá đào hoa.

    Các nhân vật khác có thể cho vào hoặc thay thế trong nhóm một thời gian ngắn:

    * Seifer Almasy – Kình địch của Squall và là người đã tấn công Balamb Garden. Anh sử dụng cây Gunblade Hyperion.
    * Laguna Loire – Một người lính Galbadia mơ ước trở thành một nhà báo.
    * Kiros Seagill - Một người lính Galbadia mang theo thanh katar trong trận đấu. Bạn thân của Laguna.
    * Ward Zabac - Một người lính Galbadia, mang theo cây lao móc trong trận đấu. Bạn thân của Laguna.
    * Edea Kramer – Một phù thủy bí ẩn, có quan hệ thân thiết với những nhân vật chính (dù lúc đầu họ không biết điều này).

    Xuất hiện sau này

    [​IMG]

    Một số nhân vật trong game cũng xuất hiện trong những trò chơi khác của Square. Squall và Ultimecia xuất hiện trong Dissidia Final Fantasy như nhân vật chính và đối đầu với nhau đại diện cho FF VIII. Squall cũng xuất hiện trong Chocobo Racing, Kingdom Hearts, Kingdom Hearts: Chain of Memories, Kingdom Hearts II, và Dragon Quest & Final Fantasy in Itadaki Street Special. Rinoa cũng góp mặt trong Dragon Quest & Final Fantasy in Itadaki Street Special, trong khi Quistis xuất hiện trong bản game cầm tay. Selphie cũng xuất hiện trong Kingdom Hearts và sau đó Seifer, Fujin, Raijin cũng tham gia trong Kingdom Hearts II.

    Squall và Rinoa từng có mặt trong bản demo kĩ thuật của FF VIII cho PlayStation 2 vào năm 1999, dựng lại khung cảnh điệu waltz trong Final Fantasy VIII sử dụng chuyển động thời gian thực.

    Cốt truyện


    [spoil]
    "Đối đầu với làn sóng bạo lực gia tăng do tuyên bố chiến tranh của Galbadia mang lại là một học viên SeeD tên gọi Squall Leonhart. Khắt khe với lỗi lầm, Squall nổi danh là một con sói đơn độc."

    "Bước ngoặt của Squall là lần gặp gỡ cô gái trẻ hồn nhiền 'Rinoa Heartilly', đã làm thế giới của anh đảo lộn hoàn toàn. Là một người rất kỉ luật, Squall thấy tính cách vô tư của Rinoa thật thú vị. Nhưng anh không có thời gian để nghĩ về điều đó, vì gánh nặng phải đối đầu với những mụ phù thủy đằng sau sự thù địch vô lí của Galbadia đã đè lên đôi vai Squall và những đồng đội Seed."
    —Lời giới thiệu chính thức

    Bối cảnh game và SeeD

    Trò chơi mở đầu bằng trận chiến giữa hai đối thủ truyền kiếp Squall Leonhart và Seifer Almasy. Squall và Seifer đều là sinh viên của Balamb Garden, học viện quân đội chuyên huấn luyện các SeeD, một lực lượng các chiến binh đặc biệt chuyên nhận những hợp đồng để giúp đỡ mọi người trên toàn thế giới. Trận đấu kết thúc bất phân thắng bại, khi cả 2 đều ăn với một vết sẹo trên mặt. Squall tỉnh dậy vài giờ sau đó vào ngày anh ta có kì kiểm tra năng lực ngoài trời. Squall đi với hướng dẫn viên của anh ta, Quistis Trepe để tiếp nhận Guardian Force(GF), một dạng sinh vật giúp con người dễ dàng sử dụng phép thuật.

    [​IMG]
    Squall và Seifer giao đấu

    Bài kiểm tra cuối cùng Squall phải vượt qua để trở thành SeeD là đi đến Dollet - thành phố đang bị chiếm đóng cùng với các thành viên khác trong đội của anh ta là Zell Dincht và Seifer Almasy. Họ nhanh chóng khám phá ra lý do quân đội Galbadian chiếm đóng nơi này, là để kích hoạt một tháp truyền thông cũ. Seifer bất ngờ bỏ nhóm, chống lại mệnh lệnh từ Balamb, cùng lúc đó, cô gái trẻ Selphie Tilmitt gia nhập nhóm, sau khi tiêu diệt con quái vật trên đỉnh tháp, cái tháp đã được khởi động lại, và nhóm của Squall bị đuổi theo đến bãi biển bởi con nhện máy X-ATM092

    Trở lại Garden, Squall cuối cùng đã vượt qua kỳ kiểm tra để trở thành SeeD, Zell và Seiphie cũng vậy. Tất nhiên Seifer, vì đã chống lại lệnh từ Balamb, bị trượt. Tối hôm đó, trong buổi lễ tốt nghiệp của SeeD, Squall được 1 cô gái mời nhảy, anh ta từ chối, nhưng cô gái vẫn khăng khăng và cuối cùng họ nhảy với nhau trước khi cô gái bất ngờ đi mất. Hôm sau, Squall, Seiphie và Zell nhận được nhiệm vụ đầu tiên với tư cách là SeeD: hỗ trợ nhóm quân cách mạng Forest Owls, nhiệm vụ của họ là giành lại độc lập cho một lãnh thổ nhỏ gọi là Timber. Trên chuyến tàu đến Timber, các SeeD đột nhiên bị ngất, họ cùng có giấc mơ về một người đàn ông tên Laguna Loire và 2 người bạn của anh ta là Kiros Seagill và Ward Zabac. Sau khi tỉnh dậy, họ gặp Forest Owls. Cô gái đã nhảy với Squall trong buổi tiệc, Rinoa Heartilly, là một thành viên của Forest Owls. Cô có mặt trong buổi tiệc để tìm sự giúp đỡ từ SeeD. Forest Owls lên kế hoạch bắt cóc Vinzer Deling, tên tổng thống độc tài của Galbadia, bắt buộc hắn ta rút quân khỏi Timber. Tuy nhiên, sau khi họ đánh tráo được toa xe chở tên tổng thống, họ phát hiện ra hắn là tên giả mạo.

    Hỗn loạn và những kí ức

    Sau khi hạ tên giả mạo, nhóm của Squall biết được rằng tổng thống Deling thật đang đi đến đài truyền hình Timber để truyền trực tiếp điều gì đấy. Ông ta công bố phù thủy Edea là đại sứ mới của quốc gia. Tuy nhiên, Seifer xuất hiện và uy hiếp tên Tổng Thống làm con tin. Sau một vài sự kiện, Seifer biến mất cùng với mụ phù thủy, sau đó bị tuyên án tử hình. Với việc uy tín của học viện có nguy cơ đổ vỡ sau sự kiện trên, Squall và bạn của anh trốn đến Galbadia Garden cùng với Rinoa. Tại đây, họ lên kế hoạch ám sát phụ thủy Edea, với sự giúp đỡ của tướng quân Galbadia Caraway và một tay thiện xạ, Irvine Kinneas. Theo kế hoạch, cuộc ám sát được thực hiện trong buổi nhậm chức của Edea tại thành phố Deling. Rinoa, quyết tâm chứng minh rằng cô ấy hoàn toàn nghiêm túc trong hoạt động chống đối này, đã lên kế hoạch phong ấn sức mạnh phù thủy của Edea bằng một phát minh mới của tiến sĩ Odine.

    Rinoa nhanh chóng bị khống chế bởi Edea, người sau đó đã giết tổng thống Deling. Zell, Selphie và Quistis nhốt Edea bên trong hệ thống cổng chắn, còn Squall và Irvine đi đến địa điểm thực hiện cuộc ám sát, nơi một khẩu súng ngắm được đặt sẵn. Irvine gần như muốn bỏ cuộc ngay trước khi anh ta định bắn Edea, nhưng với 1 chút động viên từ Squall, anh ta đã bắn mụ phù thủy. Edea chắn viên đạn bằng rào chắn phép thuật. Squall không còn cách nào khác là phải tự mình đối mặt. Băng qua cuộc diễu hành, Squall bất ngờ gặp Seifer đứng bên cạnh phù thủy Edea. Squall tấn công mụ phù thủy, sau khi vượt qua Seifer, người bây giờ đã trở thành hiệp sĩ bảo vệ bà ta. Edea sử dụng limit break của bà ta: Ice Strike, một mảnh băng đã đâm xuyên qua ngực Squall, khiến anh bất tỉnh.

    Squall tỉnh dậy ở nhà ngục D-District, gần nơi ban bè của anh bị giam giữ. Seifer tra tấn Squall nhằm điều tra mục đích thật sự của SeeD. Squall bị tra tấn đến bất tỉnh, may mắn là anh được các Moomba kịp thời giải thoát. Trong khi đó, nhóm bạn của Squall đã tìm đường trốn thoát, họ phát hiện Gabadia đang chuẩn bị tên lửa tấn công Trabia Garden, một phần trong kế hoạch hủy diệt toàn bộ các Garden của Edea. Đoán rằng mục tiệu tiếp theo của chúng là Balamb, cả nhóm đã chia thành 2 đội: đội của Seiphie tìm cách ngăn chặn tên lửa, trong khi đội Squall tức tốc quay về Balamb báo tin. Đội của Seiphie đã thất bại trong việc ngăn chặn tên lửa nhưng may mắn thoát được trước khi trạm phóng nổ tung.

    [​IMG]
    Seed của Balamb và quân lính Galbadia chiến đấu

    Squall trở về Balamb và phát hiện nơi này đang trong tình trạng bạo động, các sinh viên đấu đá lẫn nhau, một bên đứng về phía hiệu trưởng Cid, phe còn lại ủng hộ chủ của Garden là NORG. Cid tiết lộ NORG là người đầu tư vào Balamb để nhận lợi nhuận thường niên. Tuy nhiên, mục tiêu thật sự của Garden là tìm kiếm và tiêu diệt các phù thủy. Mâu thuẫn về mặt lợi ích đã biến thành cuộc chiến tranh nội bộ giữa các SeeD với những người điều hành Garden. Squall đánh bại NORG, sau đó biết được bản thân Garden là một phi thuyền. Squall di chuyển thành công Balamb ngay trước khi nó trúng tên lửa của Galbadia .

    Do không có người điều khiển, Balamb Garden đâm vào Fisherman’s Horizon, một ngôi làng yên bình được xây dựng trên hệ thống đường ray xe lửa bỏ hoang. Những kỹ sư tại đây đã giúp sửa chữa Garden trở lại như cũ. Cid kêu gọi Squall điều hành Balamb, anh đành miễn cưỡng nhận trách nhiệm. Khi Garden quay trở lại Balamb ,nhóm của Squall phát hiện lính Galbadia, dưới sự điều khiển của Fujin và Raijin, đang chiếm đóng ngôi làng để tìm một cô gái tên Ellone. Sau khi giải phóng Balamb ,nhóm Squall quyết định đi đến Trabia, trường cũ của Seiphie. Seiphie thương tiếc vì nhà cô ấy bị tên lửa của Galbadian hủy diệt, sau đó cô nói chuyện với Squall, Quistis, Irvine, Zell và nhận ra rằng khi còn nhỏ, họ từng sống cùng nhau ở trại trẻ mồ côi, được chăm sóc bởi 1 phụ nữ tên Edea. Sở dĩ họ quên quá khứ của mình là do việc sử dụng GF. Mọi người quyết định quay về trại trẻ ấy, nhưng Galbadia Garden đã có mặt ở đó trước. Họ đang chuẩn bị một cuộc chiến dưới sự điều khiển của Seifer và Edea. Squall và bạn bè của anh bất ngờ xâm nhập vào Galbadia Garden, tại đây họ gặp rồi đánh bại Seifer, sau đó là chính phù thủy Edea. Sau trận chiến, Edea bất ngờ khôi phục ý thức, nói rằng bà ta bị điều khiển bởi một phù thủy đến từ tương lai rất xa tên Ultimecia, và từ trước đến giờ nhóm Squall đã chiến đấu chống lại Ultimecia trong vỏ bọc Edea. Tuy nhiên, Ultimecia lại chiếm hữu thân xác Rinoa, khiến cô hôn mê bất tỉnh. Ultimecia cũng hồi phục cho Seifer, ra lệnh cho hắn khai quật Lunatic Pandora lên từ đáy đại dương. Các SeeD quay lại trại trẻ để nói chuyện với Edea về Ultimecia, thông qua Edea, nhóm Squall biết được kế hoạch “Nén thời gian” của Ultimecia.

    Cuộc chiến định mệnh với Ultimecia

    Trong khi Rinoa bất tỉnh, Squall nhận ra rằng anh rất yêu Rinoa và sẽ làm bất cứ điều gì để cứu cô. Squall cùng bạn bè quyết định đi đến thành phố ẩn là Esthar để gặp tiến sĩ Odine, nhà phát minh việc junction GF và là một chuyên gia về các phù thủy, Edea tham gia vào nhóm Squall đến Esthar vì lo rằng sẽ lại bị Ultimecia điều khiển. Squall cõng Rinoa trên lưng vượt qua Hồ Muối Vĩ Đại, nơi cả nhóm khám phá ra thành phố Esthar được bao phủ bởi lớp bảo vệ vô hình. Tại Esthar, tiến sĩ Odine bảo Squall nên đi tìm Ellone, người có khả năng giúp anh biết được điều gì đã xảy ra với Rinoa. Tại Lunar Gate, cả nhóm được phóng lên vũ trụ đến căn cứ mặt trăng của Esthar. Căn cứ này là nơi canh giữ phù thủy Adel, người từng thống trị Esthar.
    Squall cứu được Rinoa‎ trước khi cô bị phong ấn.

    [​IMG]
    Squall cứu được Rinoa

    Khi cả nhóm đã lên Lunar Base, Ultimecia lại chiếm thân xác Rinoa và điều khiển cô ấy hạ tất cả những ai cản đường. Trở lại mặt đất, nhóm của Zell chứng kiến một khối đen lớn trồi lên từ đại dương và xuất hiện trên Esthar. Khối đen ấy là Lunatic Pandora, rơi xuống trái đất từ rất lâu lúc lục địa Centra bị phá hủy khi quái vật trên mặt trăng tràn xuống hành tinh trong sự kiện được gọi là Lunar Cry. Seifer khai quật Lunatic Pandora theo kế hoạch của Ultimecia. Trong thân xác Rinoa, Ultimecia ra ngoài không gian và phá hủy phong ấn Adel, giúp bà ta trở lại Lunatic Pandora. Ultimecia sau đó bỏ lại Rinoa ngoài không gian rồi nhập vào Adel. Squall theo sau Rinoa ra ngoài không gian, cứu cô thoát chết. Họ may mắn trốn thoát vào con tàu bỏ hoang là Ragnarok đang trôi lơ lửng bên ngoài Lunar Base. Tuy nhiên, Rinoa bây giờ bị quy kết là phù thủy, và Esthar yêu cầu Squall giao cô ấy cho họ trước khi Rinoa gây hại cho thế giới. Rinoa đồng ý đi theo, nhưng Squall không thể chấp nhận chuyện này, anh giải cứu cho Rinoa trước khi cô bị phong ấn. Cả nhóm sau đó chuẩn bị đi vào Lunatic Pandora để giải thoát Ellone, người bị Seifer bắt theo kế hoạch của Ultimecia.

    Sau khi Ellone bị bắt, cả nhóm đã bàn bạc với tiến sĩ Odine về kế hoạch của Ultimecia. Năng lực đưa ý thức của một người đến vùng thời gian khác của Ellone được tiến sĩ Odine sử dụng trong tương lai để chế tạo cỗ máy Junction Machine Ellone. Ultimecia đã dùng cỗ máy này quay về quá khứ rồi kết nối và chiếm hữu thân xác các phù thủy để bà ta có thể tồn tại qua nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, khả năng cỗ máy cũng có giới hạn do đó Ultimecia quyết tâm truy tìm Ellone thật, để ý thức của bà ta có thể tồn tại cả ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Bằng cách tồn tại ở mọi thời điểm, Ultimecia sẽ hoàn thành kế hoạch nén thời gian của mình, từ đó hoàn toàn điều khiển thời gian, không gian và mọi sự tồn tại trên hành tinh.

    Với khám phá trên, nhóm Squall nhanh chóng lên kế hoạch cùng với Laguna Loire, giờ đã là tổng thống của Esthar, và tiến sĩ Odine nhằm ngăn chặn âm mưu của Ultimecia. Kế hoạch là họ chờ cho Ultimecia chiếm ý thức Adel, sau đó nhóm Squall sẽ đánh bại Adel, bắt buộc Ultimecia phải nhập vào Rinoa, phù thủy duy nhất còn lại. Với Ultimecia bên trong Rinoa, Ellone sẽ đưa ý thức của 2 người về quá khứ, ở đó Ultimecia sẽ dùng phép nén thời gian, sau đó Ellone tiếp tục đưa ý thức của cả 2 trở về với thời điểm hiện tại của họ, từ đó tạm thời ngăn cản phép thuật nén thời gian.

    [​IMG]
    Đối diện với Ultimecia

    Sau khi bàn bạc kĩ lưỡng, Laguna tiết lộ cho nhóm Squall cách duy nhất để sống sót trong không gian nén. Để sống sót, Squall cùng bạn bè phải giữ ký ức của mình nhớ về người khác và nghĩ đến nơi họ muốn quay về, bằng tình yêu và niềm tin lẫn nhau, họ có thể đi đến tương lai và đánh bại Ultimecia.

    Kết thúc định mệnh

    Kế hoạch đã sẵn sàng, cả nhóm đi đến Lunatic Pandora gặp Seifer. Lúc này Fujin và Raijin khuyên nhủ Seifer đừng phục vụ Ultimecia nữa mà trở về cùng họ. Seifer phớt lờ lời khuyên ấy và chiến đấu với nhóm Squall. Sau khi Seifer bị hạ, hắn bắt Rinoa rồi mang cô đến cho Ultimecia (bây giờ đang trong thân xác Adel). Ultimecia sau đó kết nối thân thể Rinoa với Adel. Nhóm Squall chiến đấu với Ultimecia rồi tiêu diệt thân thể Adel. Khi sự chiếm hữu ý thức kết thúc, Adel chuyển sức mạnh phù thủy của mình vào Rinoa, từ đó bắt đầu kế hoạch của nhóm. Không còn thân thể nào để chiếm hữu, Ultimecia nhập vào Rinoa, Ellone sau đó gửi ý thức của cả 2 về quá khứ. Với ý thức tại mọi thời điểm, Ultimecia bắt đầu nén thời gian, nhưng nó tạm thời bị dừng lại do Ellone lại tiếp tục đưa ý thức của bà ta quay về tương lai.

    Tuy nhiên, phần thời gian nén ấy cũng đưa nhóm Squall đi đến tương lai và cuối cùng tìm đến lâu đài Ultimecia. Trong tương lai, cả nhóm nhìn thấy một thế giới đen tối bị thống trị bởi Ultimecia. Xác chết của thành viên White SeeD ở khắp nơi, khiến Squall nhận ra rằng SeeD đã chiến đấu với Ultimecia qua rất nhiều thế hệ. Sau hàng loạt trận chiến để cả nhóm lấy lại khả năng bị phong ấn của mình, cả nhóm đối mặt với Ultimecia. Cuộc chạm trán cuối cùng giữa Ultimecia và SeeD là một trận chiến kinh thiên động địa, vượt qua cả không gian, thời gian.

    Ultimecia tấn công với tất cả khả năng bao gồm tìm kiếm bên trong ký ức của Squall và triệu hồi Griever, GF mạnh nhất trong tâm trí của Squall. Griever bị hạ gục, Ultimecia kết nối bà ta với Griever để tăng sức mạnh. Sau khi bị nhóm Squall đánh bại thể hợp nhất, Ultimecia biến thành hình dạng thật sự của mình, hoàn thành phép thuật nén thời gian. Bà ta nuốt chửng toàn bộ thời gian, không gian vào cơ thể, kết hợp với nó tạo thành một “vị thần sống”. Ultimecia thậm chí còn dùng ý thức của mình để tạo ra phép Apocalypse, phép thuật Black Magic tối thượng. Nhưng số phận Ultimecia đã chấm dứt, nhóm của Squall tỏ ra quá mạnh để Ultimecia có thể đánh bại. Ultimecia bị tiêu diệt hóa thành một vụ nổ cực lớn xuyên qua không gian.
    Squall nhìn Ultimecia chuyển sức mạnh sang Edea trước khi chết.

    Sau khi hình dạng cuối của Ultimecia bị đánh bại, bà ta cùng với Squall quay trở về quá khứ. Squall chứng kiến Ultimecia chuyển sức mạnh vào Edea của quá khứ trước khi tan biến. Không còn Ultimecia, vũ trụ được giải phóng khỏi sự thống trị của phù thủy. Tuy vậy, sau khi nói chuyện với Edea của quá khứ, Squall nhận ra anh bị lạc trong một vũ trụ thời gian nén.

    Squall cố gắng trở về hiện tại, nhưng trước hết anh phải quay lại thời đại của Ultimecia để có thể tạo nên cú nhảy. Nhưng thế giới thời gian nén giờ đây đã trở thành không gian vô định, nó như khoảng sa mạc trôi lơ lửng và sắp rơi vào hư vô. Không còn khả năng gợi lại ký ức cũng như khuôn mặt của Rinoa, Squall đành chấp nhận số phận bị mắc kẹt vĩnh viễn trong không gian này.

    [​IMG]

    Ở hiện tại, Rinoa quay về cánh đồng hoa gần trại trẻ của Edea để tìm Squall. Bằng năng lực phù thủy của mình, Rinoa có thể đi đến thế giới thời gian nén, nơi cô tìm thấy Squall bất tỉnh trên mặt đất. Tại thời điểm đó, Squall và Rinoa đột nhiên quay về được thời đại của mình, mây đen tan biến mở ra cánh đồng hoa ở trại trẻ mồ côi, nơi họ từng hứa gặp lại nhau. Đoạn phim kết thúc nói về số phận của từng nhân vật. Seifer có vẻ đã từ bỏ giấc mơ trở thành SeeD và đang sống vui vẻ bên những người bạn ở Balamb, nụ cười của Seifer khi nhìn thấy Balamb Garden bay qua cho thấy rằng anh đã chấp nhận cuộc sống hiện tại. Laguna thăm lại ngôi mộ Raine trên ngọn đồi ngoài thị trấn Winhill nơi ông nhớ lại ký ức lúc cầu hôn cô, trong khi Ellone, Ward và Kiros đứng nhìn từ xa.

    Trở lại với nhóm của chúng ta, họ đang trong buổi tiệc ở Balamb Garden, Edea đã trở lại hình dáng cũ, không còn là phù thủy nữa. Irvine và Selphie dùng camera để ghi lại buổi tiệc, nhưng Squall không ở đây trong khi máy quay bắt đầu hết pin.

    Sau đoạn credit, một đoạn cắt cảnh ngắn cho thấy Rinoa đang ngắm sao từ ban công của Balamb Garden. Một ngôi sao băng bay vụt qua, Rinoa chỉ cho Squall xem, cảnh tượng giống như lần đầu họ gặp nhau. Squall nhìn Rinoa và lần đầu tiên trong game, anh nở nụ cười. Squall cùng Rinoa trao cho nhau nụ hôn và Balamb Garden tiến vào bầu trời đêm đầy sao vô cùng lãng mạn.

    [/spoil]

    Âm nhạc
    Soundtrack của game là lần thứ 23 Nobuo Uematsu viết cho Square. Phát hành trên 4 đĩa bởi Digi Cube ở Nhật, và Square EA ở Bắc Mỹ, một buổi hòa nhạc đặc biệt chơi những track chọn lọc trong game (sắp xếp bởi Shiro Hamaguchi) được phát hành dưới tựa FITHOS LUSEC WECOS VINOSEC: Final Fantasy VIII, và 1 bộ sưu tập bằng Piano (biểu diễn bởi Shinko Ogata) được phát hành dưới tựa Piano Collections: Final Fantasy VIII.

    Bài hát chính của Final Fantasy VIII, “Eyes on me”, được Nobuo Uematsu viết và sản xuất do ngôi sao nhạc Pop Hồng Kông Vương Phi thể hiện, lập kỷ lục bán hơn 400,000 bản, giữ vị trí quán quân đĩa nhạc game bán chạy nhất mọi thời đại ở Nhật cho đến khi bị phá vỡ bởi ca khúc “Hikari” do Hikaru Utada trình bày trong Kingdom Hearts. Nó còn đoạt giải “ Bài hát (tiếng nước ngoài) của năm” tại lễ trao giải Đĩa Vàng thường niên của Nhật năm 1999. Đây cũng là lần đầu tiên một bài hát từ video game có vinh dự này.

    [​IMG]
    Final Fantasy VIII Original Soundtrack

    Một bản soundtrack phổ biến khác từ Final Fantasy VIII là “Liberi Fatali”, đoạn nhạc Latin được chơi suốt phần giới thiệu game. Liberi Fatali đã được phát tại Olympic Athens tổ chức ở Hy Lạp trong bộ môn bơi lội nữ.

    The Black Mages là ban nhạc đã tổ chức âm nhạc trong dòng game Final Fantasy theo phong cách rock, đã soạn lại 5 bản từ Final Fantasy VIII. Đó là "Force Your Way" từ The Black Mages, phát hành năm 2003, "The Man with the Machine Gun" và "Maybe I'm a Lion", từ The Skies Above, phát hành năm 2004 và "The Extreme" và "Premonition" từ Darkness and Starlight.

    Quá trình phát triển
    Final Fantasy VIII tiếp nối Final Fantasy VI và Final Fantasy VII trong việc giới thiệu một thế giới công nghệ cao, khác với phong cách trung cổ truyền thống của các phiên bản cũ. Tuy vậy, sự khác biệt đó là do tập trung vào câu chuyện của các nhân vật thay vì các sự kiện diễn ra trên thế giới. Thiết kế nhân vật Tetsuya Nomura muốn game có cảm giác "trường lớp". Vì Yoshinori Kitase đã có một cốt truyện trong đầu, trong đó nhân vật chính cũng ở vào độ tuổi đi học nên ý tưởng đó đã thành công. Họ tạo ra khái niệm về một học viện quân sự trong đó học viên sẽ được đào tạo để trở thành lính đánh thuê.

    Đi xa hơn, Nojima đã lên kế hoạch về 2 nhóm nhân vật trong game - nhóm hiện tại của Squall Leonhart và nhóm của Laguna Loire 20 năm trước trong quá khứ - có sự tương phản lớn với nhau. Dẫn đến nhóm của Laguna bao gồm những nhân vật ở độ tuổi gần 30 và có nhiều kinh nghiệm làm việc và chiến đấu với nhau trong khi nhóm Squall còn trẻ và thiếu kinh nghiệm, và Squall ban đầu chưa hiểu giá trị của tình bạn.

    Với Final Fantasy VII, nhân vật chính Cloud Strife, có bản tính kín đáo dẫn đến việc Kazushige Nojima để các tình huống trong đó người chơi có thể lựa chọn câu trả lời của Cloud với các tình huống và đoạn đối thoại nhất định. Với Final Fantasy VIII, Nojima muốn cung cấp cho người chơi cái nhìn thực tế về những gì nhân vật chính đã nghĩ và cảm thấy, ngay cả khi các nhân vật khác không hiểu rõ. Điều này dẫn đến các đoạn "đối thoại nội tâm" của Squall xuất hiện dưới dạng văn bản in nghiêng trong suốt trò chơi.

    Kitase cũng bày tỏ mong muốn mang đến cho game một phong cách "ngoại quốc" có chủ ý, chủ yếu là không khí châu Âu. Theo chủ đề này, những thiết kế đã được thực hiện theo phong cách kiến trúc Ai Cập cổ và Hy Lạp cũng như phong cách của các thành phố Pháp và xã hội châu Âu lí tưởng có thể thấy qua các artwork. Thêm vào đó, Kitase giải thích về logo của game - Squall và Rinoa ôm nhau -được truyền cảm hứng từ nỗ lực của nhóm trong việc diễn tả cảm xúc bằng ngôn ngữ cơ thể.

    Mục tiêu này được thể hiện xuyên suốt game; bao gồm việc sử dụng các mô hình có khả năng biểu đạt vật lí cảm xúc và hành động của nhân vật cùng với các hộp thoại cũng như sử dụng công nghệ làm phim CG mới, chi tiết hơn bất cứ tựa game Final Fantasy nào trước đó, để truyền tải một dạng 'phim câm' mang phong cách điện ảnh không cần ngôn từ để thể hiện.

    [​IMG]

    Về phần thiết kế nhân vật, Final Fantasy VIII phản ánh kĩ thuật ưa thích của Nomura, trái với Final Fantasy VII, với các nhân vật "không thật sự mang phong cách của ông". Nhóm đã quyết định xây dựng nhân vật với tỉ lệ thực tế. Vì sử dụng công nghệ FMV cao cấp sẽ tạo ra sự không đồng nhất giữa đồ họa trong game và đồ họa trong các đoạn phim có độ chi tiết cao hơn.

    Mặc dù vậy, Nomura đã phải thay đổi mỗi nhân vật một ít trước khi đạt đến giai đoạn thiết kế cuối cùng, và ông phải hi sinh một số ý tưởng. Ví dụ, ban đầu ông đã muốn Seifer tham gia vào chuyện tình tay ba với Rinoa và Squall, tuy nhiên không rõ vì lí do gì mà việc này đã không thực hiện được. Một ví dụ khác là Quistis Trepe ban đầu được thiết kế với một váy ngắn nhưng cuối cùng lại mặc váy dài ngoài quần. Rinoa ban đầu được dự định sẽ mặc một váy ngắn ngoài quần short, điều này dẫn đến một cuộc tranh cãi do Nomura muốn có ít nhất một nhân vật nữ mặc váy. Một thỏa hiệp đã được thực hiện về vấn đề này với thiết kế Selphie Tilmitt: cô ban đầu được dự định mặc quần yếm, nhưng cuối cùng Nomura quyết định rằng trang phục của cô là một cái gì đó kết hợp của cả hai, kết quả là trang phục nửa quần nửa váy của cô.

    Bìa đĩa

    [​IMG]
    [​IMG]
    Bản PC​

    Bí mật trong game

    * Trong khu Galbadian Missile Base, tại bảng điều chỉnh tên lửa, có tùy chọn để có thể xem các trang bị trong vụ tấn công bằng tên lửa. Bằng cách giữ nút File:Triangle-button.png và nút File:Square-button.png và bấm nút lên hoặc xuống, cảnh ẩn về một tên Soldier và Elite Soldier của Galbadian đang nhảy sẽ hiện ra trên màn hình.
    * Nếu Renzokuken được dùng trên Jumbo Cactuar khi đánh, nó sẽ làm động tác nhảy nhót theo phong cách truyện tranh. Đây không phải là kẻ địch duy nhất mà Squall có loạt đánh Renzokuken đặc biệt.


    Ngoài lề

    * Đây là phiên bản đầu tiên trong dòng game sử dụng nhân vật tỉ lệ người thật, và không tiêu tốn mp mỗi khi chơi phép.
    * Là phiên bản đầu tiên của loạt game có bài hát được chọn làm bản nhạc nền, "Eyes on Me", trình diễn bởi một ca sĩ Hồng Kông Vương Phi.
    * Hiện tại, Final Fantasy VIII sở hữu nhiều cái tên được vay mượn từ Star Wars nhất, bao gồm Biggs and Wedge, Nida, Piet, và Martine trong phiên bản tiếng Nhật là Dodonna.
    * Là phiên bản đầu tiên cho phép người chơi đặt tên cho Summon.
    * Phiên bản đầu tiên mà Ramuh không phải là một summon mang thuộc tính Lightning, và được thay thế bởi Quezacotl.
    * Trong buổi diễu hành của Ultimecia (là Edea) tại Deling City, những người nhảy múa đeo mặt nạ bắt chước điệu nhảy của Michael Jackson trong bài hát "Thriller".
    * Final Fantasy VIII được nhại lại trong một trò của Dreamcast Segagaga, trò chơi được gọi là Final Pharmacy VIII.
    * Trong phần một của phim Những thiên thần của Charlie, khi Dylan vào một ngôi nhà tìm quần áo, có cảnh 2 chú nhóc đang nhấn phím lia lịa và di chuyển khi chơi Final Fantasy VIII. các fan xem đây là trò cười khi game không hề có chế độ chơi 2 người (vậy mà 2 nhóc đều cầm điều khiển), thêm nữa là game cũng chẳng có đoạn nào khiến người chơi phải phấn khích di chuyển theo, cũng như khi chơi chỉ cần 2 nút là chính, vì vậy nhấn phím lia lịa là hoàn toàn vô nghĩa.
    * Đĩa chơi thử của game có sử dụng một đoạn nhạc tên là "Raid on Dollet" cho việc đột nhập vào Dollet. Phiên bản phát hành của game không dùng đoạn nhạc đó nữa và nó không được phát hành trong bất cứ album nhạc game nào. Không rõ nguyên do bản nhạc không được dùng, có một giả thuyết cho rằng nó bị loại bỏ vì vấn đề bản quyền do giống với bài hát "Hummel Gets the Rockets," soạn nhạc bởi Hans Zimmer từ bộ phim The Rock.
    * Final Fantasy VIII là trò chơi duy nhất mà tình yêu đóng vai trò quan trọng trong cốt truyện. Chính tình cảm sâu sắc đã bảo vệ Squall và những người bạn khỏi hiệu ứng Nén thời gian, tình yêu mà Squall dành cho Rinoa, đã cứu mạng anh khi anh bị lạc trong vòng xoáy thời gian.[/spoil]
     

    Các file đính kèm:

  11. king_dragontb

    king_dragontb ✯Final Fantasy Collector✯ Moderator Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    3/1/06
    Bài viết:
    4,167
    Nơi ở:
    Grand Line
    [​IMG]
    [​IMG]

    ~ MỤC LỤC ~

    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]

    Bản quyền các bản dịch thuộc về Final Fantasy Fan Club - GameVN
     
    Chỉnh sửa cuối: 12/9/10
  12. king_dragontb

    king_dragontb ✯Final Fantasy Collector✯ Moderator Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    3/1/06
    Bài viết:
    4,167
    Nơi ở:
    Grand Line
    [​IMG]

    [​IMG]

    Biên dịch: Nomurasan và victor119
    Chỉnh sửa: Nomurasan
    Nguồn:
    http://vfinalfantasy.wikia.com/wiki/Final_Fantasy_X

    [SPOIL]Final Fantasy X là phiên bản thứ mười của dòng game Final Fantasy. Game kể về câu chuyện của hai nhân vật Tidus và Yuna. Đây là phiên bản Final Fantasy đầu tiên xuất hiện trên một hệ console thế hệ thứ 6 (i.e., PlayStation 2, Xbox hay GameCube).

    Do mức độ thành công và nổi tiếng của mình, lần đầu tiên trong dòng game Final Fantasy, Final Fantasy X đã có một phần tiếp theo là Final Fantasy X-2, phát hành ngày năm 2003, tiếp nối những sự kiện ở Spira hai năm sau dưới góc nhìn của Yuna. Việc này là kết quả của ý tưởng tạo ra những tựa game ăn theo độc lập cho hai nhân vật Yuna và Rikku, mà sau đó được kết hợp luôn thành một game.

    Đây là phiên bản đầu tiên trong dòng game sử dụng thuyết minh, thay cho phương pháp trước đây là phụ đề. Tuy vậy, việc thực hiện lồng tiếng đã giới hạn khả năng thay đổi tên nhân vật của người chơi. Tidus là nhân vật duy nhất mà người chơi có thể đổi tên. Ngoài ra, người chơi cũng có thể đặt tên cho Aeon. FFX cũng là phiên bản đầu tiên sau một thời gian dài mà hầu hết các nhân vật đều chỉ có tên mà không có họ.

    Gameplay

    [video]zjgkfgCnDWc[/video]​

    Các trò chơi nhỏ

    • Blitzball (Chơi bóng Blitz) - Minigame xuất hiện trong Final Fantasy X là Blitzball, một sự kết hợp giữa bóng đá và polo dưới nước, được chơi hoàn toàn dưới nước trong một bể bơi khổng lồ hình cầu ở Luca. Tuyển mộ cầu thủ cũng là một phần quan trọng của Blitzball. Có được những cầu thủ mới, giỏi hơn, biết khi nào phải tinh giảm biên chế, có thể quyết định một đội bóng mạnh hay yếu.

    • Đua Chocobo - Xuất hiện ít hơn so với các phiên bản trước trong dòng game khi chỉ có huấn luyện và đua Chocobo. Minigame này nằm ở Calm Lands, người chơi có thể tham gia vào một vài thử thách huấn luyện Chocobo và sau đó dùng những kĩ năng này để đua ở Remiem Temple.

    • Đấu trường quái vật - Khi bạn bắt quái vật (fiends) trên toàn Spira bằng những loại vũ khí đặc biệt, chúng xuất hiện ở Monster Arena (cũng nằm ở Calm Lands).Bạn có thể đấu với những quái vật này bất cứ lúc nào (tốn một khoản phí), một số kết hợp đặc thù có thể sinh ra những quái vật cực mạnh.

    • Vũ khí thần thánh - Mỗi nhân vật trong game có một loại vũ khí tối thượng của riêng mình, đòi hỏi bạn phải khá vất vả và di chuyển rất nhiều mới lấy được.

    • Mỗi địa danh hầu như đều có những minigame nhỏ, ví dụ như Butterfly Hunt (Bắt bướm) ở rừng Macalania, hay Valley of the Cactuars (Thung lũng Cactuars) ở Sa mạc Bikanel. Xem các địa danh để biết thêm chi tiết.

    Sphere Grid

    Nhân vật trong trò chơi sẽ mạnh lên nhờ việc sử dụng Sphere Grid. Việc nhận AP trong mỗi trận đấu, thu thập các loại sphere khác nhau, di chuyển trong Sphere Grid, sẽ giúp nhân vật tăng các chỉ số và học được các kĩ năng mới. Sphere Grid cho phép nhân vật mở khóa và học được các kỹ năng "lẫn lộn", nghĩa là họ sẽ học được một lượng lớn các kỹ năng Black Magic, White Magic, Defense và Attack. Nó cho phép nhân vật thoát khỏi giới hạn trong khả năng chiến đấu, chẳng hạn như việc tự do trở thành một bậc thầy White Magic hay một Paladin dũng mãnh,... Một bản Sphere Grid đặc biệt đi kèm trong bản International.

    [​IMG]
    Sphere Grid của Lulu

    Hệ thống chiến đấu

    [​IMG]

    Không giống như các game trước sử dụng hệ thống ATB, Final Fantasy X sử dụng hệ thống Conditional Turn-Based (CTB) (Hệ thống chiến đấu theo lượt có điều kiện), hay còn được gọi là Count Time Battle System ở Nhật Bản.

    [​IMG]
    Hệ thống CTB trong Final Fantasy X

    Về cơ bản, CTB là hệ thống chiến đấu theo lượt (turn-based) không vận hành theo vòng tròn. Nghĩa là, thứ tự lượt đi không đảm bảo mỗi người tham gia vào trận đấu sẽ có số lượt đi bằng nhau. Nhân vật có tốc độ nhanh hơn sẽ đi được nhiều lượt hơn nhân vật chậm, điều này làm cho tốc độ trở nên quan trọng hơn nhiều so với các hệ thống chiến đấu theo lượt khác. Ngoài ra, phép thuật và các kĩ năng (như Haste) có thể thay đổi thứ tự lượt đi (được gọi là Danh sách hành động (Act List)), cũng như một số kĩ năng đòi hỏi thời gian phục hồi lâu hơn. Về tổng quát, những kĩ năng yếu cần thời gian phục hồi ngắn, vì thế tạo nên một hệ thống bù trừ giữa sức mạnh và tốc độ.
    Hệ thống này khác biệt so với hệ thống Active Time Battle (ATB) ở chỗ khi một lượt đi của một nhân vật bắt đầu, mọi hành động đều tạm ngưng cho đến khi nhân vật quyết định làm gì với lượt đi đó. Điều này làm cho việc chiến đấu chuyển từ phản xạ và nhanh chóng ra quyết định sang tính toán chiến lược và lên kế hoạch kĩ càng.

    Nhân vật

    Nhân vật điều khiển được

    [​IMG]
    Tidus

    [​IMG]
    Yuna

    [​IMG]
    Auron

    [​IMG]
    Wakka

    [​IMG]
    Lulu

    [​IMG]
    Rikku

    [​IMG]
    Kimahri

    [​IMG]
    Seymour (Chỉ điều khiển được tạm thời. Có thể điều khiển anh ta trong trận đấu thứ hai với Sinspawn Gui)

    Cốt truyện

    Final Fantasy X bắt đầu bằng in medias res (đây là một cụm từ Latin biểu thị một kĩ thuật dẫn truyện trong văn học nghệ thuật, khi câu chuyện không được kể từ đầu mà bắt đầu ở giữa hay đoạn kết), với cảnh nhóm bạn ngồi lặng yên bên đống lửa trại. Bên kia chân trời là một thành phố đổ nát, bao phủ bởi ánh sáng rực rỡ. Tidus, người hùng của game, bắt đầu kể lại câu chuyện làm sao anh đến được nơi này. Trong phần lớn thời gian, anh là người dẫn truyện.

    [​IMG]
    Cảnh mở đầu của Final Fantasy X

    Đến Spira

    Câu chuyện của Tidus bắt đầu ở Zanarkand, Tại một thành phố của tương lai với những công nghệ hiện đại. Tidus đang kí tặng cho fan, nghĩ rằng đây chỉ là một ngày bình thường của anh, một ngôi sao Blitzball của đội bóng Zanarkand Abes. Vào lúc trận đấu diễn ra, một con sóng bí ẩn xuất hiện trong thành phố. Con sóng phá hủy Zanarkand và chỉ duy nhất một người vẫn bình thản là Auron. Tidus đến gặp Auron, người luôn dẫn dắt anh từ khi cha anh là Jecht mất tích. Auron luôn là người biết nhiều nói ít, ông cho anh biết thứ đang phá hủy thành phố là "Sin". Tidus và Auron chiến đấu với lũ quái vật tràn ngập ở đường lớn trong thành phố, và tiêu diệt thành công một con quái vật có xúc tu. Trong lúc chiến đấu, Tidus rất kinh ngạc khi thời gian ngừng lại, một cậu bé mặc áo choàng tím xuất hiện nói với anh những từ bí ẩn mà anh không thể hiểu được. Lúc thời gian trở lại, cậu bé bỏ đi và Tidus tiếp tục nhiệm vụ phía trước với Auron. Khi tiến tới miệng của Sin, họ biến mất cùng với nó. Tidus bất tỉnh, nhưng vẫn loáng thoáng thấy hình bóng của cha.

    [​IMG]
    Auron trước quang cảnh Zanarkand

    Khi Tidus tỉnh dậy, anh đang nổi trên một hồ nước của một phế tích. Bơi về phía trước, anh đến được một ngôi đền bỏ hoang. Sau khi đánh lửa để chống chọi với cái lạnh, Tidus gặp một nhóm người lạ nói ngôn ngữ mà anh không hiểu. Họ bắt anh và áp giải lên trên tàu. Hoang mang, Tidus không biết họ yêu cầu cái gì. Một cô gái thân thiện, Rikku, tiết lộ họ là Al Bhed, một nhóm người sử dụng công nghệ cấm gọi là Machina. Nếu muốn yên ổn, Tidus phải cùng với Rikku xuống nước để khởi động thứ họ yêu cầu. Lúc nhiệm vụ kết thúc cũng là lúc Sin lại xuất hiện, đẩy anh ra khỏi con tàu.

    Một lần nữa Tidus trôi đến địa điểm lạ, nhưng lần này là một bãi biển đầy nắng. Sau khi thấy những người lạ ra dấu cho mình, Tidus mừng rỡ khi thấy được thứ quen thuộc: một nhóm ở trên bờ đang chơi môn thể thao của anh: Blitzball. Sau khi trình diễn kĩ năng ấn tượng của mình, những người trên đảo vây lấy anh với sự ngưỡng mộ. Người trưởng nhóm, Wakka, tỏ ra rất nhiệt tình, anh dẫn Tidus đến nơi ở của anh trên Besaid, một hòn đảo thuộc Spira. Khi Tidus đề cập đến thành phố nơi anh sinh sống: Zanarkand cùng với Sin, Wakka rất bàng hoàng khi biết cuộc gặp gỡ gần đây của Tidus với Sin. Anh giải thích rằng Sin là một con quái vật đã phá hủy Zanarkand một nghìn năm trước kia như sự trừng phạt cho việc sử sụng Machina.

    Wakka dẫn Tidus đến trung tâm của làng, hi vọng rằng anh sẽ gia nhập đội Blitzball của mình, Besaid Aurochs. Đội bóng chưa bao giờ chiến thắng trong bất kì giải Blitzball nào trong suốt cả thập kỉ qua, và trong nỗi tuyệt vọng đó sự giúp đỡ của Tidus là cần thiết; Mặc dù Wakka có ý định rời khỏi đội để trở thành Guardian. Tidus đồng ý gia nhập Aurochs. Sau khi dạo quanh ngôi làng và nói chuyện với vài người dân, Wakka đưa Tidus đến một ngôi đền, một nhánh của giáo hội Yevon của Spira. Tại đây, Tidus được biết về một nữ Summoner, người đã bắt đầu thử thách tại đền thờ rất lâu. Sợ rằng Summoner gặp nguy hiểm, Tidus bất chấp mệnh lệnh của các giám mục mà chạy vào Cloister of Trials trong đền, hy vọng có thể giải cứu Summoner. Sau đó Tidus gặp các Guardian của cô, một người cao lớn trông giống một con mãnh sư, Kimahri Ronso, pháp sư Lulu và Wakka. Tidus đã đến kịp để thấy mặt người Summoner, Yuna, bước ra khỏi Căn phòng của Fayth. Ngay lập tức, Tidus bị vẻ đẹp của cô thu hút.

    Bên ngoài đền thờ, Yuna triệu tập Aeon đầu tiên của cô, Valefor. Cô có vẻ quan tâm đến câu truyện của Tidus về nguồn gốc Zanarkand của anh, và mong được nghe nhiều hơn nữa. Kết thúc cuộc truyện trò đầu tiên đó, Tidus trở về nhà của Waka để nghỉ. Đêm đó anh tình cờ nghe được cuộc tranh luận của Lulu với Wakka về anh. Lulu tin rằng Wakka chỉ cố lấy lại hình ảnh của người anh em trai đã chết, Chappu, người có khuôn mặt khá giống với Tidus. Lúc Wakka đưa cho Tidus thanh kiếm trước kia của Chappu, Brotherhood, cô nghĩ như vậy là không đúng chỗ.

    [​IMG]
    Tidus nhận thanh kiếm Brotherhood từ Wakka

    Chuyến hành hương

    Ngày hôm sau, các Guardians cùng Yuna lên đường thực hiện chuyến hành hương, một hành trình thiêng liêng xuyên suốt Spira để giành được Final Aeon, vũ khí duy nhất có thể chiến đấu với Sin. Họ đưa Tidus đi cùng với hi vọng có ai đó sẽ nhận ra anh trong giải Blitzball. Họ lên đường bằng con tàu S.S. Liki tới đền thờ tại Kilika. Tidus và Yuna có một cuộc nói truyện khác tại đây, Yuna nói rằng cô tin câu truyện của Tidus, hơn nữa cha của Tidus cũng đến Spira mười năm trước và nói những điều tương tự. Yuna tiết lộ cô là con gái của Braska, Summoner đã tiêu diệt Sin trước kia với sự giúp đỡ của Auron và Jecht. Trong chuyến đi, Sin xuất hiện và tấn công Kilika. Cả nhóm chiến đấu với Sin, nhưng không gây ra bất kì thương tích nào cho nó. Sin tiếp tục với mục tiêu của nó và san bằng Kilika.

    Khi cả nhóm đến nơi, họ chỉ tìm thấy ở đây một đống đổ nát. Yuna, thực hiện vai trò khác của Summoner, "tiễn đưa" những linh hồn đã khuất trong cuộc tấn công vừa rồi. Những người chết ở Spira sẽ hóa thành Pyreflies và sẽ dần biến thành quái vật, người ta gọi đó là Fiends trừ khi họ được một summoner siêu độ. Tidus bị choáng ngợp trước vẻ đẹp của điệu nhảy trong nghi lễ và sự kinh hoàng mà nó thể hiện. Sau đó, cả nhóm tiếp tục tiến đến đền thờ tiếp theo để thu nhận Aeon Ifrit. Trong đền thờ, họ gặp kình địch của Yuna, Dona, một summoner kiêu căng và guardian của cô là Barthello.

    [​IMG]
    Yuna tiễn đưa những linh hồn đã khuất của Kilika

    Sau khi hoàn thành phần đầu tiên, cả nhóm tiếp tục chuyến hành hương đến Luca, thành phố lớn thứ hai của Spira, và là nơi tổ chức một giải Blitzball lớn. Maester Seymour Guado và Grand Maester, Yo Mika đích thân phát động giải đấu. Tidus bị mất tinh thần rất nhiều khi Yuna bày tỏ sự hâm mộ của mình với Seymour, một Maester rất trẻ với một chức vụ cao. Nhưng anh bỏ qua hết những ý nghĩ đó để tập trung cho những trận đấu Blitzball ở phía trước.

    Trong khi trận đấu đầu tiên diễn ra, Yuna bị đội Al Bhed Psyches bắt cóc nhắm ép đội Aurochs phải đầu hàng. Trong khi Wakka thi đấu, Tidus đi cùng với Lulu và Kimarhi đi tìm Yuna. Sau khi đánh bại Oblitzerator giải cứu Yuna từ tay Al Bhed, Tidus biết được Yuna có dòng máu Al Bhed. Lulu truyền tin đó đến Wakka. Như được giải tỏa, anh đứng dậy và giành lấy chiến thắng, kết thúc 23 năm thất bại mà không cần sự giúp đỡ của Tidus. Trận Blitzball tiếp theo họ gặp đội bóng vô địch của Spira, Luca Goers. Kết thúc trận đấu, một bầy Fiends tấn công sân vận động, tạo nên một cuộc hỗn loạn. Tidus và Wakka đang chiến đấu với lũ quái thú ở sân bóng thì bất ngờ được sự viện trợ của Auron, ông đã tiêu diệt lũ fiends tấn công khán giả. Fiends bị tiêu diệt hoàn toàn bởi Aeon của Seymour, Anima. Yuna, cùng với hàng nghìn khán giả, sững sờ trước màn show hàng Aeon của Seymour.

    Auron kéo Tidus ra ngoài để nói truyện riêng với anh. Ông tiết lộ cho Tidus một tin không hay: "Sin là Jecht". Sững sờ trước điều không tưởng này, Tidus không chấp nhận nó. Câu nói đó làm cho anh cảm thấy bứt rứt. Tidus nói truyện với Yuna, cô khuyên anh hãy cười lên, rồi cùng anh cười phá om sòm. Hành động Yuna làm các Guardian xung quanh chết lặng, họ lo lắng hai người kia chắc bị điên rồi; Cuối cùng, chính họ cũng bật cười sau đó. Chuyến hành hương lại tiếp tục đến Mi'ihen Highroad, nhưng với hai guardian mới: Auron và Tidus.

    Ở đầu đường của Highroad, cả nhóm nhận thấy vùng đất này đã bị Crusaders - một đội quân của Yevon - chiếm đóng. Dưới sự điều hành của Seymour và một Maester cũng là bạn cũ của Auron, Wen Kinoc, Crusaders liên minh với Al Bhed trong cuộc chiến chống lại Sin. Wakka, rất tin tưởng vào những lời dạy của Yevon và vô cùng phẫn nộ với Al Bhed, bực tức với toàn bộ kế hoạch. Auron chỉ im lặng, biết rằng Crusaders sẽ thất bại. Chiến dịch Mi'ihen, như họ gọi, đã trở thành một thảm họa. Hàng trăm Crusader thiệt mang dù Yuna và các Guardian đã cố gắng hết sức để chiến đầu cùng họ. Sau thất bại, Yevon bưng bít sự dính líu của họ bằng cách đổ tội cho Crusader đã tự tiện làm trái lới dạy. Auron giải thích cho Tidus lý do duy nhất để Sin đến Mi'ihen là được gặp đứa con trai của mình. Cả nhóm rời khỏi chiến trường, không có cách nào để miêu tả cảm giác của họ sau toàn bộ thảm kịch này.

    [​IMG]
    Chiến dịch Mi'ihen

    Tiếp tục cuộc hành trình phía trước, cả nhóm đến đền thờ Djose để nhận Aeon Ixion. Ở đây họ gặp Isaaru, cũng là một summoner, anh có vẻ là một người nhân từ. Họ nghe được tin đồn rằng các Summoner đang bị bắt cóc. Cả nhóm sau đó tiến đến Moonflow, một con sông chảy ngang qua Spira. Trong khi đang vượt sông bằng Shoopuf, Wakka chỉ cho Tidus tàn tích của một thành phố chìm sâu dưới nước như một ví dụ hoàn hảo cho việc dám sử dụng Machina trái phép. Bất ngờ, người Al Bhed bắt cóc Yuna xuống dưới nước, nhưng cô đã được Tidus và Wakka giải cứu sau khi tiêu diệt chiếc Machina giam cầm cô. Sau khi sang được bờ bên kia, họ tiến đến chỗ Rikku, người điều khiển machina vừa bị phá hủy đó. Rikku chính là em họ của Yuna, dù Wakka không hề biết Rikku và Yuna có dòng máu Al Bhed. Cô gia nhập nhóm với tư cách là guardian thứ sáu, với sự đồng ý của Auron, người biết về chủng tộc của cô.

    Cả nhóm tiếp tục tiến đến Guadosalam, thành phố của Guado, là một chủng tộc elf gần giống con người mà Seymour là lãnh đạo. Anh ta mời cả nhóm đến dinh thự của mình và tìm cách "tán" Yuna, đồng thời cho họ xem một viên Sphere ghi lại hình ảnh Zanarkand của Tidus, cùng với hình ảnh của Summoner đầu tiên chiến đấu với Sin, công nương Yunalesca. Sau đó Seymour cầu hôn với Yuna, làm cho Tidus vô cùng bất mãn.

    Yuna lảng tránh câu trả lời, và cùng cả nhóm đến thăm Farplane, nơi tập trung của pyrefly tạo nên hình ảnh những người đã khuất dựa trên kí ức người thân của họ. Rikku tin rằng toàn bộ thứ đó chỉ là ảo giác, và quyết định không vào. Auron cũng ở lại, dù không đưa ra bất kì lý do nào. Bên trong, Tidus thử tìm cha anh nhưng Jecht không xuất hiện, nghĩa là có thể ông vẫn còn sống và là Sin. Tuy nhiên, Tidus tình cờ tìm được hình ảnh của mẹ anh, Yuna giải thích rằng bà đã chấp nhận cái chết khi Jetch mất tích. Trong lúc họ đi ra, cha của Seymour, Jyscal Guado thoát ra khỏi Farplane. Lúc này ông là một Unsent, hồn ma của người có cái chết khác thường. Yuna ngay lập tức siêu độ cho Jyscal, lúc này Auron bỗng nhiên khụy xuống. Một viên sphere xuất hiện sau khi Jyscal đã siêu thoát, Yuna vội nhặt nó lên. Sau khi xem nội dung của nó một mình, Yuna tuyên bố rằng cô chấp nhận đám cưới với Seymour.

    Sự thật nghiệt ngã

    Cả nhóm băng qua Thunder Plains đến đền thờ Macalania để nhận Aeon băng Shiva. Ở đây họ gặp Tromell, quản gia của Seymour. Ông ta đưa Yuna vào trong đền để sửa soạn cho đám cưới, nhưng trước đó họ bị quân Al Bhed phục kích. Người Al Bhed cố gắng ngăn cản chuyến hành hương bằng một machina khác, lần này là Crawler, nhưng bị cả nhóm đánh bại. Ở đây, Wakka nhận ra Rikku là người Al Bhed, và nhanh chóng tỏ thái độ với những người "ngoại đạo" này. Tidus cố gắng giải thích với Wakka rằng người Al Bhed không hẳn là xấu, và Rikku thực sự là một người tốt, anh nói: "Rikku là Rikku thôi". Bực tức vì không ai ủng hộ mình, Wakka tự đi bộ đến điện thờ Macalania trong khi những người khác đi bằng Machina. Tùy vào cấp độ hiện tại trong game, Tidus sẽ đi cùng với Rikku, Lulu, Auron, hoặc Kimahri.

    Nếu Tidus đi với Rikku, anh sẽ biết Rikku và Yuna là chị em họ, và Rikku giải thích tại sao Al Bhed muốn bảo vệ các summoner trong cuộc hành hương: summoner chấp nhận hi sinh để đem đến hạnh phúc cho Spira. Nếu anh đi cùng với Lulu, anh sẽ hiểu tại sao Wakka lại ghét người Al Bhed đến vậy. Nguyên nhân là cái chết của Chappu. Anh hỏi Lulu liệu một người có thể trở thành Sin được không, từ đó cô thực sự tin rằng Tidus đến từ một thế giới không có Sin. Đến nơi, cả nhóm xem viên sphere mà Yuna đang giữ, nó cho thấy Seymour đã sát hại cha của mình để có thể trở thành Maester. Cả nhóm quyết định đối đầu với Seymour ngay bên ngoài căn phòng của Fayth.

    Trong trận đấu, Seymour đi cùng với hai guardian Guado. Sau khi cả nhóm xử lý xong guardian của Seymour, hắn triệu tập Aeon Anima. Lúc này Yuna có thể triệu hồi Shiva với tên gọi trước đó là "???" trong bảng summon. Cả nhóm đã đánh bại Seymour và Anima. Tuy nhiên, Tromell xuất hiện và mang xác Seymour đi trước khi Yuna kịp send hắn. Lão đập vỡ viên sphere để che đậy tôi ác của Seymour. Cả nhóm sau đó chạy thoát ra khỏi điện thờ với sự truy sát của các Guado. Quái vật Wendigo phá vỡ lớp băng ở hồ Macalania làm cả nhóm bị rơi xuống hồ, nhưng họ thoát được. Sau đó họ đáp xuống thân mình Sin, rồi cả nhóm bị bất tỉnh khi nó chuyển động.

    Tỉnh dậy ở sa mạc Bikanel, Tidus nhận thấy chỉ có mình anh tại ốc đảo. Dù sau đó anh đã gặp lại các Guardian khác nhưng anh không thể tìm thấy Yuna. Rikku đề nghị cho cả nhóm đến căn cứ của người Al Bhed, thành phố Home. Khi đến nơi hộ thấy Home đang bị lực lượng Guado tấn công. Cả nhóm tìm thấy Dona và Isaaru trong khi chống trả đợt tấn công. Hai người này bị Al Bhed giữ ở căn phòng dành riêng cho Summoner. Tại đây Tidus bị khủng hoảng khi biết được sự thật nghiệt ngã đằng sau chuyến hành hương, lý do tại sao Al Bhed cố gắng ngăn cản nhiệm vụ triệu hồi Final Aeon của các Summoner: Summoner sẽ chết sau khi triệu tập Final Aeon và Yuna sẽ nhận kết cục như vậy nếu tiếp tục hành trình. Cùng với các Summoner chiến đấu, cả nhóm tiến đến Airship của Al Bhed do cha của Rikku là Cid chỉ huy, chính là chiếc phi thuyền lúc đầu Tidus và Rikku đã trục vớt. Phi thuyền chở những người Al Bhed rời khỏi đây, họ bị buộc phải rời bỏ quê nhà. Cuối cùng, Cid quyết định phá hủy Home bằng cách ra lệnh tấn công tên lửa bằng phi thuyền. Trong lúc ở trên phi thuyền, cả nhóm phát hiện ra Yuna đang bị người Guado bắt làm đám cưới với hồn ma Seymour.

    [​IMG]
    Đám cưới Yuna và Seymour

    Cả nhóm tìm thấy Yuna tại trung tâm của đạo Yevon: thành phố Bevelle. Cô đang mặc trang phục cưới cùng với Seymour. Sau khi chiến đấu với quái vật bảo hộ của thành phố: Evrae, Tidus và cả đội đáp xuống phá đám cưới. Họ chiến đấu với binh lính Yevon trang bị tận răng và các machina, tiến tới Cloister of Trials và nhận được Aeon Bahamut, nhưng vẫn bị bắt. Yuna và các Guardian bị đưa ra xét xử, Yuna tìm cách yêu cầu các Maester nên Send Seymour tới Farplane. Nhưng cô rất bất ngờ khi biết Grand Maester Yo Mika cũng là một Unsent. Dường như không ai đứng về phía họ, ngoại trừ Maester Kelk Ronso, người đã rời khỏi Yevon thời gian trước đó. Trong khi bị cẩm tù trong một cái lồng, Auron tiết lộ cho Tidus sự thật đau lòng của chuyến hành hương. Dù Summoner của phải hy sinh bản thân mình để đánh bại Sin, thì Sin vẫn luôn luôn trở lại tạo nên một vòng luẩn quẩn của cái chết trên Spira. Yuna cùng các Guardian bị giam ở Via Purifico, một hầm nhục mà người ta thường nói là "không thể thoát". Trong khi hầu hết các thành viên khác bị giam ở một mê cung thì Tidus, Wakka và Rikku bị nhốt dưới một cái hầm nước. Họ buộc phải chiến đấu với Evrae Altana, một con rồng Undead.

    Ở phía trên mê cung, Yuna phải đương đầu với Isaaru. Anh đã đặt lòng trung thành của mình đối với Yevon trên cả tình bạn đối với Yuna. Cả hai Summoner đấu tay đôi bằng cách sử dụng các Aeon, nhưng Isaaru bị đánh bại hoàn toàn. Dù được tha mạng nhưng chuyến hành hương của anh ta đã chấm dứt sau khi anh để thua. Trên đường trốn thoát khỏi Bevelle, cả nhóm tìm thấy Seymour đứng trước xác chết của Kinoc. Dù bị người bạn cũ của mình chính là Kinoc phản bội, nhưng Auron cũng vô cùng phẫn nộ trước cái chết của ông ta. Bằng cách sử dụng thi thể của Kinoc và những hộ vệ của ông, Seymour biến thành một loài quái vật, đó là Seymour Natus và một lần nữa bị cả nhóm đánh bại.

    Rời khỏi Bevelle để đến Rừng Macalania, niềm tin của Yuna đặt vào Yevon đã bắt đầu lung lay. Cô đi vào trong rừng một mình. Tidus - được sự đồng ý của những người khác - đi theo, bởi anh cũng như mọi người trong nhóm đều muốn xoa dịu cú sốc của Yuna. Anh tìm thấy Yuna ở một hồ nước trong rừng. Anh nói cho cô nghe là anh đã biết sự thật đằng sau nghi thức Final Summoning, xin lỗi cô về việc liên tục nói về cuộc sống của cô sau khi tiêu diệt Sin, vì anh nghĩ rằng điều đó chỉ làm cô thêm chán nản. Tuy vậy, Yuna không trách anh, ngược lại cô nói rằng những điều đó thật sự khiến cô cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc.

    [​IMG]
    Yuna và Tidus bên nhau

    Tidus tìm cách thuyết phục Yuna từ bỏ chuyến hành hương và đi với anh. Mặc dù rất muốn nhưng cuối cùng Yuna quyết định không thể để Sin tàn phá thế giới. Lúc này, những cảm xúc đã dồn nén sâu trong lòng Yuna bấy lâu nay như giọt nước tràn ly, trào ra làm cô òa khóc. Tidus tiến đến an ủi cô và cả 2 trao cho nhau nụ hôn say đắm. Sau khoảng khắc lãng mạn đó, họ trở lại với nhóm và tiếp tục chuyến hành trình đến Calm Lands và sau đó là núi Gagazet.

    Trước khi đi qua núi Gagazet, Kelk và bộ tộc Ronso chúc phúc cho Yuna, sau khi chứng kiến quyết tâm và lòng dũng cảm của cô. Sau đó Tidus nói chuyện với Rikku, giờ đây khi họ đang đến gần Zanarkand, chuyện gì sẽ xảy ra với Yuna? Vì cả 2 đều lo sợ, Tidus và Rikku tìm cách lên kế hoạch cứu Yuna. Ngay sau đó người Ronso bị Seymour tấn công và rất nhiều người dân đã bị giết hại. Cả nhóm chiến đấu trên ngọn núi băng giá trước khi đụng độ Seymour một lần nữa, lần này là Seymour Flux. Hắn tiết lộ kế hoạch thực sự của mình: cứu Spira khỏi vòng xoay chết chóc bằng cách trở thành Sin, và sau đó quét sạch toàn bộ người dân ở đây. Tidus gọi hắn là đồ điên và tấn công với sự hỗ trợ của cả nhóm. Mặc dù Seymour đã mạnh lên, hắn vẫn bị đánh bại.
    Sau trận đấu, cả nhóm biết được Sin là Jecht. Họ đến trước một cảnh tượng lạ lùng: một bồn phun nước của Fayth lạc trong những giấc mơ. Tidus đột nhiên có một hình ảnh anh trở về Zanarkand. Khi ở đây, anh thấy cậu bé mặc áo tím ở đầu game. Cậu bé tiết lộ mình là Fayth của Bahamut. Cậu cho Tidus biết một sự thật khó tin hơn bất cứ gì trước đây. Sin được tạo ra để Spira mãi mãi lạc hậu, như thế Zanarkand của Tidus sẽ tồn tại mãi mãi mà không bị phát hiện. Thực ra, Zanarkand của Tidus không phải gì khác mà chỉ là một giấc mơ do Fayth tạo ra. Tidus, Jecht và mọi người dân trong thành phố đều là những giấc mơ. Họ sẽ không tồn tại nữa nếu Sin thật sự bị tiêu diệt. Fayth của Bahamut yêu cầu Tidus đánh bại Sin, để họ (các Fayth) thoát khỏi gánh nặng gìn giữ "Zanarkand trong mơ" và siêu thoát về Farplane. Tidus chấp nhận, dù biết rằng làm vậy anh sẽ chết. Sau khi tỉnh táo lại, Tidus giữ kín bí mật này không nói với ai.

    Sau khi băng qua núi Gagazet, cả nhóm đến Zanarkand hiện thực, nơi Cuộc hành hương kết thúc. Đây là nơi câu chuyện trở về cảnh ban đầu và Tidus kết thúc phần kể chuyện của anh. Sau khi đi qua Sanctuary Keeper, cả nhóm tiến vào khu phế tích Zanarkand dẫn đến Zanarkand Dome. Pyrefly ở đây dày đặc đến nỗi họ có thể thấy hình ảnh của các Summoner trong quá khứ đã đến đây để đánh bại Sin. Điều lạ lùng là họ cũng thấy ở đây hình ảnh của Seymour lúc nhỏ, mẹ anh ta đã hi sinh để trở thành Anima.

    Sau đó họ gặp Yunalesca, giờ đây là một Unsent sau trận chiến của bà với Sin. Họ cũng biết rằng để tạo ra Final Aeon, một Guardian phải hi sinh để trở thành Fayth. Họ cũng thấy hình ảnh chuyến hành hương của Braska trong quá khứ, khi Jecht quyết định hi sinh mạng sống để trở thành Final Aeon. Sau đó, Yunalesca cho họ biết thêm một sự thật đáng ngại. Final Aeon chỉ có thể đánh bại Sin trong một khoảng thời gian ngắn. Sau khi Sin "cũ" bị tiêu diệt, Yu Yevon, linh hồn Summoner tà ác điều khiển Sin và Fayth của Zanarkand trong mơ, sẽ chiếm lấy Final Aeon dùng thân xác đó để tạo ra Sin mới. Vì vậy ai trở thành Final Aeon sẽ trở thành Sin, và vòng xoay chết chóc cứ tiếp diễn mãi mãi.

    Yuna từ chối tham gia vào vòng luẩn quẩn điên khùng này. Yunalesca tin rằng khi không có niềm tin thực hiện Final Summoning, Yuna sẽ chìm đắm trong nỗi tuyệt vọng, vì thế quyết định giết cô để "giải thoát" cho cô khỏi số phận đó. Ngay trước trận đấu, cả nhóm thấy Auron trong quá khứ. Kinh hoàng sau cái chết của Braska và sự biến đổi của Jecht, Auron đến đối mặt với Yunalesca và bị giết, biến ông thành Unsent. Sau đó, ông tập hợp cả nhóm và chiến đấu với Yunalesca. Dù Yunalesca cực mạnh và đã biến hình thành một quái vật ghê gớm, cả nhóm vẫn đứng vững và chiến thắng, chấm dứt hi vọng về Final Aeon mãi mãi.

    Đánh bại Sin

    Sau khi Yunalesca chết, nhóm bạn cần một cách mới để đánh bại Sin. Cid đưa phi thuyền đến đón họ và họ nghĩ ra một kế hoạch. Nhưng trước khi kế hoạch đó được thực hiện, Yevon đang hỗn loạn vì cái chết của quá nhiều Maesters. Tidus và nhóm bạn hạ cánh xuống Bevelle để gặp Yo Mika. Khi biết họ đã không lấy được Final Aeon, và thậm chí còn loại trừ nó mãi mãi, ông ta đã rất hoảng sợ. Cảm thấy tuyệt vọng vì Spira sắp bị hủy diệt bởi Sin, Mika chán nản bay về Farplane.

    [​IMG]
    Trận chiến cuối cùng với Sin

    Cả nhóm nghĩ ra một kế hoạch để đánh bại Sin. Họ sẽ đánh lạc hướng Sin bằng cách nhờ người dân Spira hát bài hát yêu thích của Jecht: Hymn of the Fayth. Khi Sin dừng lại, cả nhóm sẽ tấn công bằng phi thuyền. Cuộc tấn công diễn ra như kế hoạch và pháo laser của phi thuyền đã thổi tung lớp vảy của Sin. Sau khi phá hủy phần trung tâm, con quái vật rơi xuống Bevelle, có vẻ đã bị hạ gục. Nhung Sin nhanh chóng phục hồi, mọc cánh và bay lên trời. Sau đó nó tấn công thẳng vào phi thuyền, sẵn sàng tiêu diệt cả nhóm. May mắn là nhóm bạn đã ngăn được Sin, con quái vật há miệng hút phi thuyền vào bên trong. Ở bên trong Sin, họ gặp Seymour đang cười vì chiến thắng của hắn sắp đến.

    Bên trong Sin, cả nhóm thấy rằng hóa ra con quái vật này chứa cả một dungeon tràn ngập Fiend trong người. Sau khi chiến đấu với chúng, họ gặp Seymour và chiến đấu với hắn lần cuối cùng. Mặc dù Seymour đã biến thành một dạng lợi hại hơn: Seymour Omnis, hắn vẫn bị tiêu diệt. Không còn nơi nào để trốn, gã Maester độc địa đã bị tống khứ về Farplane. Trước khi biến mất, Seymour tiết lộ rằng hắn vui mừng vì chính Yuna là người đánh bại hắn, nhưng dù cho họ có tiêu diệt Sin, nỗi đau của Spira sẽ tiếp diễn. Tidus thề không để điều đó xảy ra.

    Tiếp tục đi sâu vào Sin, nhóm bạn tìm thấy một nơi giống như sân vận động Blitzball ở Zanarkand trong mơ. Tidus cuối cùng cũng gặp được cha anh. Dù Jecht chỉ còn một khoảng thời gian ngắn trước khi tâm trí ông hoàn toàn biến thành Sin, ông đã được gặp con trai lần cuối. Sau đó Jecht biến thành Final Aeon của Braska, hình dạng thật sự của Sin. Một lần nữa cả nhóm lại chiến thắng, kết thúc cơn ác mộng phải trở thành Sin của Jecht. Jecht tạm biệt Tidus, thậm chí còn mắng anh khóc nhè. Tuy vậy, trận đấu vẫn chưa kết thúc.

    Yu Yevon, cần một Aeon để kí sinh, đã lần lượt điều khiển các Aeon của Yuna. Cả nhóm phải tiêu diệt tất cả Aeon khi Yu Yevon điều khiển chúng. Không còn nơi nào để trốn, Yu Yevon buộc phải xuất hiện. Tai họa của toàn Spira hóa ra chỉ như một con bọ lớn biết bay. Cả nhóm đã đánh bại Yu Yevon và tiêu diệt Sin mãi mãi, cứu Spira khỏi cơn ác mộng ngàn năm.

    Nhiệm vụ đã hoàn thành, Auron yêu cầu Yuna Send ông. Cô làm theo mà lòng trĩu nặng. Sau đó, khi trận chiến cuối cùng đã thắng lợi, Tidus cũng bắt đầu biến mất. Khi các Fayth yên nghỉ sau giấc mơ ngàn năm, Tidus cũng không tồn tại nữa. Yuna cố ôm lấy Tidus nhưng ngã xuyên qua người anh. Sau đó Yuna nói rằng cô yêu anh. Dù sắp biến mất, Tidus ôm lấy cô lần cuối. Anh tạm biệt mọi người và nhảy khỏi phi thuyền, rơi vào những đám mây, nơi anh thấy Braska, Auron và Jecht đang chờ mình. Khi rơi xuống, Tidus đập tay với Jecht, một hình ảnh cho thấy anh đã hòa giải với cha mình.

    [​IMG]
    Tidus tan biến

    Sau đó, Yuna có cuộc phát biểu ở sân vận động Blitzball Luca về tương lai của Spira; Sin cuối cùng cũng bị tiêu diệt và Spira lại trở về với họ, sau 1000 năm sống trong sợ hãi. Eternal Calm cuối cùng cũng đến và Yuna quyết tâm sẽ hỗ trợ mọi người tái thiết thế giới khi mà Sin đã không còn. Câu nói cuối cùng của cô, ngay trước khi phần credit xuất hiện, là không bao giờ được quên những người thân yêu ta đã mất và những giấc mơ đã tan biến.

    [​IMG]
    Yuna phát biểu trước người dân Spira

    Sau phần credit, một đoạn cắt cảnh sau cùng cho thấy Tidus đang tỉnh dậy giữa lòng đại dương và bơi lên mặt nước, với một nụ cười trên môi. Cảnh này được giải thích trong Final Fantasy X-2 nếu người chơi hoàn thành một số điều kiện.

    Âm nhạc

    Nhạc nền chính của trò chơi là "Zanarkand". Bản nhạc này được nghe vào đoạn bắt đầu của trò chơi, ngoài ra nó còn được trình bày ở nhiều dạng khác trong những sự kiện chính của trò chơi.

    Một bản nhạc thường gặp nữa là "Suteki Da Ne". Nó được cất lên trong hoạt cảnh lãng mạn giữa Tidus và Yuna ở rừng Macalania. Một vài đoạn nhạc của trò chơi cũng được trình bày dưới giai điệu của bài hát này, tuy nhiên đã được phối âm lại , chẳng hạn như "Yuna's Theme" và "Spira Unplugged". Vài bài hát phổ biến khác như "Otherworld", được thể hiện vào đầu trò chơi và ở trận chiến cuối cùng với Final Aeon, rồi "Hymn of the Fayth", được hát với nhiểu kiểu khác nhau: trong mỗi đền thờ, bởi mỗi Fayth, bởi nhiều nhân vật, bởi những người dân Al Bhed và kể cả được Tidus hát bằng hơi.

    Phát triển

    Việc phát triển Final Fantasy X bắt đầu từ 1999. Dù Hironobu Sakaguchi tỏ ý nghi ngờ về việc chuyển đổi từ 2D sang nền 3D, lồng tiếng nhân vật và kể chuyện theo thời gian thực, ông cũng nói rằng thành công của series bắt nguồn từ những thay đổi và không ngại thử những cái mới trong quá trình phát triển. Ban đầu, Final Fantasy X được dự tính sẽ tích hợp những nội dung trực tuyến, nhưng sau đó bị hủy bỏ, và được dùng cho tựa game tiếp theo Final Fantasy XI.

    [​IMG]
    Bức ảnh hiếm hoi duy nhất về logo nguyên thủy của game, được công bố trong Square Millennium Event năm 2000. Khuôn mặt Yuna ở bên trái, đối diện người xem với bàn tay phải giơ lên trên và trên nền là hình ảnh một phi thuyền lớn.

    Rất nhiều tính năng được thêm vào, như hệ thống Conditional Turn-Based Battle (CTB), một hệ thống chiến đấu mới thay thế Active-Time Battle (ATB). Khái niệm World Map cũng bị bỏ đi, vì nhóm phát triển muốn một thứ gì đó thực tế hơn, cũng như tính thực tế của cảnh nền 3D và diễn hoạt của nhân vật.

    Lồng tiếng

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    Final Fantasy X: International

    Bản International được phát hành ở Nhật 31/1, 2002, và sau đó ở châu Âu (bản châu Âu chỉ gọi là "Final Fantasy X"). Bản "nâng cấp" này có bìa đĩa khác ở Nhật, và thêm một số tính năng như Sphere Grid chuyên sâu (Expert), giúp học kĩ năng dễ dàng hơn, nhưng chỉ số tổng quát lại thấp hơn; thêm nhiều kĩ năng cho cả Standard và Expert Grids; thêm các Dark Aeon và Penance, đều là những con trùm siêu cấp ; cũng như những thay đổi nhỏ về hội thoại, cắt cảnh, các đồ vật Celestial Weapons, nhân vật và áo giáp & tùy biến vũ khí, ví dụ như Ribbon. Bản này cũng bao gồm 1 đĩa bonus với những cảnh hậu trường của Final Fantasy X, và một đoạn phim giới thiệu đặc biệt về Final Fantasy X-2.

    [​IMG]

    Bản phát hành ở châu Âu cũng có Dark Aeon và Penance, cùng với những khả năng mới, nhưng không đổi tên các Celestial Sigil và Crest. Trong game có xuất hiện viền đen, và tốc độ chậm hơn do việc chuyển sang hệ PAL, xem thêm: poor PAL conversion. Phiên bản nhãn đen cũng bao gồm một DVD tựa đề Beyond Final Fantasy, bao gồm một số phỏng vấn với đội ngũ phát triển, cùng với 2 diễn viên lồng tiếng Anh. Thêm vào đó, nó bao gồm trailer một số game của Square, artwork, tiểu sử ngắn của Nobuo Uematsu và Rikki, cùng đoạn video Rikki hát "Suteki Da Ne."

    Có một lỗi New Game+ trong một số bản Final Fantasy X: International, nếu người chơi đến chỗ đã chiến đấu với Dark Ifrit sau khi đánh bại Yunalesca, nhưng trước khi đánh với Final Aeon của Braska, có thể đi qua 2 người đàn ông chặn lối đến Home, và như thế, có thể trở về sự kiện ở Home với Yuna trong nhóm. Lỗi này có thể làm lại sau lần đầu tiên.

    [​IMG]
    Sphere Grid trong bản International

    Phiên bản này cũng bao gồm phần lồng tiếng Anh và tùy chọn menu và phụ đề Anh hay Nhật.

    Các phiên bản

    [​IMG]
    Nhật

    [​IMG]
    Mỹ

    [​IMG]
    International

    [​IMG]
    Châu Âu

    [​IMG]
    Chau Âu (Platinum)

    Thư viện ảnh
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]


    Thông tin bên lề

    • Final Fantasy X là game Final Fantasy đầu tiên có phần âm nhạc không hoàn toàn do Nobuo Uematsu sáng tác, ông là người đã soạn nhạc cho Final Fantasy từ khi dòng game ra đời.

    • Phần lớn những đoạn hội thoại tiếng Anh không dựa trên những đoạn phim thực tế trong game; hướng dẫn duy nhất cho các diễn viên lồng tiếng là những đoạn hội thoại gốc tiếng Nhật, và họ hiếm khi có dịp đồng bộ lời thoại với những đoạn phim. Khi việc ghi âm giọng nói đã hoàn tất, biên tập âm thanh sẽ tăng tốc hay làm chậm các đoạn audio clips bằng kĩ thuật số để phù hợp với thời gian nói của nhân vật cho từng dòng hội thoại.

    • Việc phát triển Final Fantasy X bắt đầu từ 1999, tốn khoảng 4 tỉ yên Nhật (khoảng 32.3 triệu đôla Mỹ) với một đội ngũ hơn 100 người, phần lớn đều tham gia các game trước trong seri Final Fantasy.

    • Nhà sản xuất Yoshinori Kitase cảm thấy nếu bối cảnh quay về thời trung cổ châu Âu (có các yếu tố thần thoại), sẽ không giúp đội ngũ phát triển tiến bộ. Khi ông đang nghĩ về một thế giới khác, tác giả kịch bản Kazushige Nojima đã đề nghị một thế giới giả tưởng với nhiều yếu tố châu Á.

    • Trên nền đoạn FMV ban đầu khi Tidus đến Luca, khi camera quay cảnh đường phố, có thể nghe thấy đoạn nhạc "I Want to be Your Canary" trong Final Fantasy IX. Cũng như vậy, trong một cảnh trước cảnh đường phố (khi camera quay bên hông một số tòa nhà) một phần của "Rufus' Welcoming Ceremony" trong Final Fantasy VII được chơi.
    [/SPOIL]
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này