...Biểu diễn nóng quớ, cần quéo gì quần! - The delicate and complicated art of looking black metal without looking ridiculous or gay at the same time. Hình ảnh của một Ihsahn hoang dại trên sân khấu - một Ihsahn đầu lĩnh, bộ óc sáng tạo của Emperor. Với gần hai thập kỉ làm mưa làm gió thì Emperor không thua kém gì những đàn anh đi trước như Bathory hay Darkthrone. Khả năng sáng tác của Ihsahn cũng chính là một yếu tố nòng cốt cho sự thành công trong âm nhạc của Emperor. Dựa trên chất liệu black metal vốn dĩ nặng nề và nghịch âm, Ihsahn đã chú trọng thêm cả yếu tố phối khí giao hưởng nhằm tạo nên đặc trưng của Emperor. Kể cả những Dimmu Borgir hay Cradle of Filth (thời kì giữa) cũng không thể sánh bằng. Ngay cả cái cách mà Ihsahn sử dụng keyboard trong những album của Emperor cũng không mang lại những tác dụng phụ thường thấy như màu mè, hoa lá cành, gay, râu ông nọ cắm cằm bà kia v..v... mà ngược lại trở thành một phần quan trọng trong tổng thể âm nhạc. Nếu nhấc phần keyboard ra, sẽ chẳng còn cái “symphonic” trong cái cụm “symphonic black metal” nữa mà sẽ chỉ là những đoạn riff phức tạp + blast beats mà Faust hay Trym vẫn thường hay gõ cho Zyklon hay Abigail Williams. Sự thể nghiệm trong âm nhạc của Ihsahn thể hiện rất rõ ràng trong những album sau này của Emperor, đặc biệt là Prometheus (2001), album Ihsahn sáng tác hoàn toàn 100%. Prometheus đặt tiền đề cho những albums hay EPs sau này của Ihsahn với Peccatum hay thậm chí chính là những solo album của anh. Đối với những Emperor fans thì Prometheus vốn bị chỉ trích nặng nề nếu so sánh với một In the Nightside Eclipse (1994) và Anthems to the Welkin at Dusk (1997) kinh điển trước đó. Một yếu tố mới mẻ - yếu tố “progressive” đã được triển khai nhưng chỉ dưới dạng thai nghén trong Prometheus. Mỗi track là một cấu trúc phức tạp, tương đối riêng rẽ, có tính kĩ thuật nhưng chưa thể đạt tới mức của một progressive band. Guitar tone thì thoái trào từ tiếng đàn buzzsaw đặc phổ biến của black metal. Samoth thì bị tống sang kép phụ, chỉ chơi những đoạn hợp âm làm nền cho những đoàn lead của Ihsahn. Với sự bành trướng của Ihsahn thì Emperor cũng giải tỏa bằng cách... tự giải tán. Đừng chờ đợi Ihsahn ngồi yên, một vài side project cũng được Ihsahn khởi động. Peccatum là một trong số đó, sản phẩm “cây nhà lá vườn” này được Ihsahn thực hiện cùng vợ (Ihriel/Mrs. Ihsahn). Lần này những ý tưởng mộng mị của Ihsahn được thể nghiệm theo chiều hướng avant-garde. Gothic, prog, jazz,... tất cả đều được đưa vào trong âm nhạc của Peccatum. Giọng ca ma ám của Ihriel khiến cho những trường đoạn black metal trở nên thảm hại (fail). Mặc dù vậy, giá trị sáng tác của Ihsahn vẫn được phát huy qua những thể nghiệm avant-garde mới mẻ, từ những đoạn piano tĩnh lặng cho tới những phút giây bừng bừng đột ngột của ma quỷ qua tiếng đàn guitar dày đặc của Ihsahn. Qua Amor Fati (2000) cho tới Lost In Reverie (2004) và ngay cả EP cuối cùng The Moribund People (2005) là một bước tiến ngoạn mục trước khi đường ai nấy đi của Peccatum. Vẻ đẹp huyền bí, tối tăm và rùng rợn qua giọng ca Ihriel, cùng với thứ thẩm mĩ đầy xấu xí (hay xấu xí đầy thẩm mĩ) của Ihsahn – đây là sản phẩm mà một khi bạn thực hiện album metal cùng với vợ mình. ____The Adversary (2006) Có hai điều trước tiên để nói về album đầu tiên của Ihsahn. Một, với những fan của Emperor thì đây là một album chấp nhân được của Ihsahn. Hai, cho dù là một extreme album nhưng người nghe vẫn có thể bắt gặp phảng phất đâu đó... King Diamond. Với album đầu tay, thì Ihsahn cố gắng thể nghiệm tất cả những sub-genre trên cái gốc rễ là extreme metal. Kể từ sau Emperor, Ihsahn luôn muốn có một nền tảng âm nhạc mới mẻ dành cho chính mình. Sau những gì hun đúc từ Peccatum, giống với tên gọi của chính album này – đây chính là kẻ thù của metal (tất nhiên là theo Ihsahn). Đối với những fan của Emperor, thì album này cũng chính là kẻ thù của họ. Một số đã thậm chí so sánh và phát hiện ra một hội chứng gọi là hội chứng Tom G. Warrior (thủ lĩnh của Celtic Frost/Tom G. Warrior Syndrome). Một số extreme metal artists mắc hội chứng này, họ cảm thấy mình bị mainstream đánh giá thấp khi cho ra đời những landmark album (cho dù được underground đón nhận và thần tượng) và tìm cách thể hiện âm nhạc của mình một cách không cần thiết và phức tạp nhất có thể (tất nhiên được đám nhà phê bình mainstream nhìn nhận và đánh giá). Minh chứng tiêu biểu là tuyệt phẩm Cold Lake (1985) của Celtic Frost chơi glam (!?), nhận được một rổ tạ và danh hiệu sold out. Quay trở lại với Ihsahn, với việc nhận ảnh hưởng từ King Diamond và Iron Maiden, người nghe có thể dễ dàng nhận ra kiểu giọng falsetto của King Diamond xuất hiện nhan nhản trong The Adversary. Hay đôi khi là track cuối “The Pain is Still Mine” với độ dài epic có âm hưởng từ rock opera thập niên 70s, hay rõ ràng hơn là “Sad Wings of Destiny” của Judas Priest. Còn track đầu tiên – Invocation lại gợi lại chính Emperor trong Prometheus với tiết tấu dữ dội. Called By The Fire mang chút gì đó của heavy/power metal. Trong khi đó thì Citizen có một đoạn khá chậm rãi trước khi lại hòa vào không khí dồn dập của cả album. Homecoming đầy u sầu với sự tham gia vocal của Garm (Ulver), nhưng khá là khó để phân biệt giữa cả hai vocalist trong track này. Hai track sau, trong khi Astera Ton Proinon mang yếu tố giao hưởng thì Panem at Circences lại khá là nặng nề. Sự thể hiện vocal của Ihsahn trong hai track cũng có thể coi là nổi bật nhất album. Nửa sau của album thì có vẻ đa phần thể hiện sự phẫn nộ, đặc biệt là Will You Love Me Now?. Tuy vậy, về phần ý tưởng thì giữa các track khá rời rạc, không thể hiện nhiều sự gắn kết giữa cả nội dung lẫn về phần âm nhạc. Thường thì những nghệ sĩ hay ban nhạc black metal đến từ Na Uy đều có nhược điểm chung là khâu production khá là... tệ, không khác là mấy so với thời Prometheus. Tiếng trống trong album này được xử lí khá nghèo nàn, trong khi crash cymbal khá là ồn thì tiếng của snare và bass drum lại quá nhỏ. Về mặt kĩ thuật thì Ihsahn ngày càng gây ấn tượng về kĩ thuật guitar của mình, có thể thấy cả trong riff của Ihsahn có một chút gì đó của Spiral Architect. Tất nhiên yếu tố prog trong album này được thể hiện nhiều hơn rõ rệt trong cả cấu trúc lẫn tiết tấu. Nhìn chung, The Adversary là một album khá với một chút tàn dư black metal của Emperor, đồng thời là yếu tố từ các thể loại khác được thể nghiệm khiến người nghe tương đối hài lòng. ____angL (2008) angL đánh dấu sự tập trung của Ihsahn trong sáng tác, trong khi vẫn còn đó những thử nghiệm mới mẻ, thay vì trở thành một cái lò nung trộn đa thể loại như The Adversary trước đó. Điều đáng hài lòng nhất là kiểu giọng falsetto của King Diamond đã không còn, độ dài các track cũng được tuốt lại một cách gọn gàng và có sự nhất quán về chủ đề giữa các track. Ihsahn cũng phần nào quay trở về với lối viết cấu trúc nhạc theo kiểu truyền thống, cụ thể là thập niên 80s. angL đã là một album extreme prog đúng nghĩa. Khi nghe album này của Ihsahn, người nghe dễ dàng nhận thấy điểm tương đồng giữa chất liệu nhạc của angL với những album của Opeth. Thậm chí trong track Unhealer còn có cả sự tham gia của chính Mikael Akerfeldt với màn vấn đáp vocal. Những track như Emancipation hay Threnody cũng rất giàu giai điệu và một số đoạn khai thác sử dụng acoustic - điều khá tương đồng với Opeth. Mặc dù vậy thì những đoạn riff vẫn mang đầy đặc trưng của Ihsahn với kĩ thuật cực kì điêu luyện và hài hòa. Cũng phải nói thêm, trong album này Ihsahn sử dụng guitar 7 dây mang lại những hợp âm catchy những cũng rất tự nhiên và đầy chiều sâu. Cũng như Invocation (track mở đầu của The Adversary) thì Misanthrope bắt đầu angL với cảm giác đầy hoài cổ đối với người nghe bằng cách gợi lại tiếng guitar dồn dầp cùng với nền keyboard của Emperor. Vocal của Ihsahn cũng tương đối thay đổi, không còn hoàn toàn là shrieking mà là harsh growl, tuy đôi chút ngại ngùng nhưng Ihsahn cũng đã thể hiện clean vocal ở một số track trong album (điều đáng mừng thay vì là falsetto). Scarab là sự kết hợp giữa đoạn main riff tuyệt vời xen kẽ với những đoạn chuyển tiếp chậm rãi nhẹ nhàng. Ngoài sự xuất hiện có phần lấn áp của Mikael Akerfeldt trong track thứ ba Unhealer nhưng Ihsahn kịp để lại dấu ấn với một đoạn solo xuất sắc. Emancipation và Malediction tiếp tục hành trình dang dở từ Misanthrope. Malediction có một sự chuyển giao rất hài hòa, với phần trống được Asgeir Mickelson đảm nhận với tiết tấu nhanh gợi lại một thời đốt nhà thờ. Những câu solo ngắn được sắp đặt khéo léo khiến cho mạch ca khúc tuy lên xuống nhưng vẫn rất trôi chảy. Đến Alchemist và Elevator thì nhịp điệu được chậm lại và mở đầu bằng những đoạn riff khá kì quặc của avant-garde. Đoạn chorus của Elevator khá là ấn tượng với nền keyboard và Ihsahn như song ca với cây guitar của mình. Threnody khá là yên ắng với tiếng đàn acoustic cùng giọng hát mềm mại của Ihsahn. Monolith kết thúc album, là sự kết hợp hoàn hảo giữa black metal và prog, bắt đầu bằng một đoạn clean guitar trước khi trống đưa bạn trở lại với tiết tấu dồn dập như ở đầu album. Xét về mọi mặt, âm nhạc cũng như khâu production thì angL đã được cải thiện rất nhiều. Album cũng thể hiện sự đột phá phá cách của Ihsahn trong việc sáng tác tạo nên một bức tranh tổng thể đầy ấn tượng. ____After (2010) Hai năm sau angL, bốn năm sau The Adversary thì như theo một chu kì nhất định Ihsahn cho ra mắt album thứ ba trong loạt trilogy bắt đầu bằng chữ A của mình - After. Quen mà lạ, lần này phong cách biến hóa của Ihsahn được hòa trộn với những yếu tố mới, những nhân tố mới. Với trống và bass vẫn được đảm nhận bởi Asgeir Mickelson và Lars Norberg (đều từ Spiral Architect) thì lần này có sự tham gia đặc biệt của saxophonist Jorgen Munkeby (Shining, Na Uy). Như vậy, đan xen với tiết tấu dồn dập của âm nhạc là tiếng saxophone đầy chất jazz, gợi lại chút liên tưởng đến Coltrane hay Carnival in Coal. Nếu như The Adversary hay angL rất thẳng thắn trong việc bộc lộ những chủ đề của mình (theo cách tương phản), thì After lại mang một gam màu ẩn dụ. Tối, nhưng không hề lạnh lẽo trống trải. Đôi lúc lại có những giây phút rất trầm lắng sâu sắc nhưng đầy vẻ đẹp thẩm mĩ. Cái cách đặt tên bài hát, cũng như âm hưởng trong mỗi ca khúc vô cùng trừu tượng. Giống như thay vì đưa người nghe chìm vào dòng chảy xiết của tiết tấu thì Ihsahn lại vẽ lên một bức tranh phong cảnh theo trường phái hậu ấn tượng của Van Gogh, Gauguin hay Rousseau. The Barren Lands mở màn After bằng một đoạn riff mà có vẻ Ihsahn đã thâu nạp về từ Dream Theater. Đây là một cách rất ấn tượng để mở đầu với một track có tiết tấu nhanh, cuốn hút người nghe vào mạch album. Cho đến A Grave Inversed, có thể nói đây là track “nặng” nhất trong After, với tempo dữ dội, riff nghịch tai và kèn sax thì thả phanh theo điệu nhạc dồn cho tới khi kết thúc. After, ca khúc cùng tên với album thì lại khá tĩnh mịch, sở hữu một đoạn instrumental ở giữa (lại gợi cho chúng ta tới Dream Theater). Tuy vậy, After có vẻ chỉ là một track chuyển tiếp trong khi chủ đạo của album lại chính nằm ở Frozen Lake On Mars và Undercurrent, cũng là hai track xuất sắc nhất. Frozen Lake On Mars với đoạn guitar rất đáng nhớ. Còn với Undercurrent, 5 phút đầu sẽ khiến người nghe thả mình trôi theo dòng nước nhẹ nhàng, nhưng cũng đừng quên motif sáng tác của Ihsahn - những trường đoạn nhẹ nhàng sẽ chuyển tiếp người nghe sang một đoạn nặng nề dồn dập và cứ như vậy tuần hoàn lặp đi lặp lại. Tiếng kèn sax trong Undercurrent cũng là một điểm sáng, nhất là tiếng kèn ngân nga ở cuối bài, khiến cho trải qua 10 phút thời lượng mà ta vẫn còn nuối tiếc muốn nó kéo dài thêm. Kế tiếp là Austere, với đoạn solo mellotron theo phong cách hoài cổ của Per Wiberg (Opeth) cùng những âm hưởng của prog rock thập niên 70s với Gentle Giant hay Procol Harum. Sau khi trôi nổi từ After cho tới Austere, Ihsahn đưa người nghe dạt vào Heaven’s Black Sea. Ở đây thì Ihsahn tiếp tục phô diễn kĩ thuật guitar của mình với một số đoạn solo. Nếu như ai đã từng nghe The Adversary hay angL có thể nhận thấy rằng số lượng solo của guitar trong After lần này đã bị giảm đi rõ rệt, thay thế vào đó là quá nhiều những đoạn solo của sax, đôi khi cũng gây ra một số phản ứng ngược, ví dụ chệch choạc ra khỏi âm nhạc chung hoặc tương đối nhàm chán. Không khó để nhận ra On The Shores – track cuối và cũng là track dài nhất, với đoạn kèn sax còn đang thổi dang dở từ Undercurrent. Với nền là acoustic mang nhịp điệu chậm rãi thì tiếng kèn sax phóng khoáng khá là thích hợp ở đây, thay vì mất hút trong những track với tiết tấu nhanh. On The Shores tổng kết tinh hoa từ những track trước và là một cái kết đẹp cho After. Không thể nghiệm quá nhiều thể loại như The Adversary, hay quá dập khuôn như angL thì với After, Ihsahn đã tiến bộ rất nhiều khi kết hợp nhuần nhuyễn giữa các yếu tố mới – cũ trong âm nhạc cộng với óc sáng tác thiên tài của mình một cách hiệu quả. Khâu production đáng để ngợi khen khi tiếng trống được xử lí rất sạch, cũng như truyền tải được hết cái hồn của album tới người nghe. Một trong những album đáng nghe trong năm 2010 với đủ cả jazz, black lẫn prog. Kekeke, cây guitar đắt xiền của mình... ~ Dedicated to best friend VLMN (R.I.P 1987 - 2010, đứt màng nhĩ) ~ Tên truy cập - The Rotten C0ck