Nhiếp ảnh căn bản

Thảo luận trong 'Bảo tàng Nhiếp ảnh' bắt đầu bởi February14th, 6/3/10.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. February14th

    February14th

    Tham gia ngày:
    20/2/06
    Bài viết:
    2,976
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Tớ lập topic này ra để cho anh em ta có điều kiện học hỏi môn nghệ thuật cuối cùng này :x. Đề nghị chỉ đọc bài và ko post vào đây nha. Có j thắc mắc, cám ơn, hay hỏi han thì sang bên topic mở hàng post nha.

    ________________

    Photography, bản thân cái tên đã nói lên khá nhiều về hình thứ nghệ thuật này. Không khó để nhận biết chữ photo có nghĩa là ánh sáng, và graphy có nghĩa là vẽ. Photography chính là "vẽ lên bằng ánh sáng" hay nói chính xác bằng khoa học thì là ghi lại hình ảnh bằng quang năng của các hạt photon ánh sáng. Cũng có lúc quá trình ghi ảnh đã được gọi bằng tên khác Heliography, trong đó Helios mang nghĩa mặt trời.

    Lịch sử nhiếp ảnh bắt đầu từ khá lâu gắn liền với các phát minh khoa học nhưng bước tiến đáng chú ý nhất là khi Joseph Nicéphore Niépce người Pháp thực hiện thành công bức hình nóc nhà & chuồng bồ câu năm 1826. Để bức ảnh này nhà phát minh này đã mất 8 tiếng phơi sáng (!). Trước đó thì các phát minh như tìm ra chất bắt sáng, ống kinh v.v đã đặt nền móng cho nhiếp ảnh hiện đại. Srono còn nhớ có 1 cái chuyện là 1 nhà khoa học phơi miếgn tráng bạc ở ngoài sáng và có 1 chiếc lá rớt lên trên, và phát hiện ra miếng lá đã che sáng và tạo nên bức hình đầu tiên.

    Trong suốt 200 năm gần đây nhiếp ảnh đã có những bước tiến chóng mặt. Từ những chiếc máy ảnh to lớn, quá trình rửa ảnh dài và phức tạp chỉ dành cho những nhà nghiên cứu, nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp, nhiếp ảnh đã tiến 1 bước dài khi trở thành một quy trình đơn giản, rẻ tiền cho mọi người. Những bước ngoặt lớn có thể kể đến việc chuyển hỗn hợp hóa chất ở dạng ướtt, tráng lên các miếng kính dễ vỡ để làm film (1851) sang sử dụng lớp tráng khô trên kính (1871) rồi dùng film cuộn trên giấy thay vì dùng các miếng thủy tinh cồng kềnh do Eastman (Kodak) sáng chế. 1914, Oscar Barnack của viện nghiên cứu Đức Leitz (Leica) đã phát triển ra chiếc máy ảnh sử dụng chuẩn 35mm đầu tiên. Chiếc máy ảnh Leica mà Barnack thiết kế ra này chính là nền móng, tạo nên một chuẩn mực camera phải như thế nào. Vừa rồi Leica cũng sản xuất lại chiếc máy limited edition Oscar Barnack để tưởng nhớ nhà sáng chế này. 1924, chiếc máy ảnh thương mại 35mm của Leica dựa trên thiết kế của Barnack ra thị trường và 25 năm sau đó chiếc máy SLR đầu tiên của Zeiss - Contax S - xuất hiện. Lịch sử nhiếp ảnh sang một trang hoàn toàn mới khi chiếc máy ảnh dSLR đầu tiên của Kodak ra đời năm 1991.

    Nhắc qua đến lịch sử 1 chút để thấy rằng máy ảnh, các công cụ nhiếp ảnh đã thay đổi rất nhiều, tuy nhiên không vì thế mà bản chất của nhiếp ảnh thay đổi. Photography vẫn là phos và graphis và các nguyên lý chính vẫn không thay đổi. Các nguyên lý chính:

    Ánh sáng - film/sensor.

    Film là một hỗn hợp chất nhạy sáng chứa hợp chất của bạc. Các hạt bạc nằm trên lớp tráng của film. Khi ánh sáng chiếu lên bề mặt film, quá trình ghi ảnh sẽ diễn ra do các hạt film nhận được cường độ sáng khác nhau sẽ "cháy" ở các mức độ khác nhau. Quá trình này không khác nhiều trên các máy digital, các sensor hay chính là các tế bào quang điện cảm nhận được độ mạnh yếu của cường độ sáng khác nhau sẽ trả về các tín hiệu khác nhau. Tấm ảnh thu được chính là "bản đồ" các hạt film bị cháy hay tín hiệu thu được từ các tế bào quang điện sau khi xử lý. Để giải thích cụ thể từng quá trính thì sẽ phức tạp hơn (hóa chất tráng, hóa chất hãm, film emulsion layer, filter lọc màu, các filter trên sensor, v.v) nên sẽ không đề cập đến trong giới hạn bài viết này. Chỉ cần hiểu được: film và sensor lưu lại được hình ảnh do lượng ánh sáng từ vật mang tới. Trong bài này Srn cũng sẽ không đi sâu về tính toán vật lý mà có thể chỉ đưa con số. Ai thích có thể tự tìm hiểu thêm.

    Vậy kiểm soát hình ảnh chính là việc kiểm soát lượng ánh sáng vào sensor/film ;). Giả sử đối với một bức ảnh cụ thể, ta phải có 1 lượng sáng nhất định vào film/sensor. Nếu lượng ánh sáng này thừa, ảnh sẽ thừa sáng, mất các chi tiết ở vùng sáng (highlight), hay còn gọi là *cháy*. Ngược lại, thiếu sáng, ảnh sẽ bị tốt, mất chi tiết vùng tối (shadow). Vậy nôm na là ta cần phải có 1 lượng ánh sáng chính xác. Có thể hiểu quá trình này giống như việc bơm nước vào bể chứa, khi ta cần 1 lượng nước nhất định.

    Aperture

    Là độ mở của ống kính, ống kính mở càng to thì ánh sáng vào càng nhiều hơn trong cùng 1 khoảng thời gian. Độ mở của ống kính thay đổi khi máy thay đổi hình dạng các lá thép trong ống kính.

    [​IMG]
    (src: http://www.shortcourses.com/images/b4ch1/aperture.jpg)

    Hình minh họa ở trên giới thiệu rất trực quan: các mức mở của aperture nối tiếp nhau cho lượng sáng đi qua = 2 lần mức trước đó do đó thu được ảnh sáng/tối lệch nhau 2 lần. Mỗi mức này gọi là 1 stop của ánh sáng. (các hình trên thu được trong điều kiện shutter speed không đổi).
    Quay lại với ví dụ về bể nước, vòi nước to gấp 2 thì sau 1 thời gian nhất định mức nước sẽ gấp 2.

    Shutter speed

    Là thời gian phơi sáng của film và sensor, thời gian càng lâu thì ánh sáng vào càng nhiều. Cái này được kiểm soát bằng shutter - màn trập trên máy ảnh hoặc trên ống kính.

    [​IMG]
    (src: http://www.shortcourses.com/images/b4ch1/shutterspeed.jpg)

    Tương tự, với khoảng thời gian gấp 2 -> ánh sáng thu được sẽ gấp 2. Mỗi mức này cũng là 1 stop. Với cái bể nước, nếu mở vòi lâu gấp 2, với cùng 1 kích thước vòi nước -> ta thu được lượng nước gấp 2.

    (bài viết được tổng hợp từ nhiều nguồn, nguồn Internet)
    http://forum.vncnus.net/viewtopic.php?f=72&t=20644
    Srono- VNCNUS
     
    Chỉnh sửa cuối: 9/3/10
  2. Teddy SinAra

    Teddy SinAra Moderator Moderator Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    19/5/08
    Bài viết:
    3,873
    Nơi ở:
    Ho Chi Minh City
    ngại đọc cái mớ dài thòng bên trên thì đọc những cái đc rút ngắn lại bên dưới,gút lắc,vài thuật ngữ của dân photo ga phờ
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/3/10
  3. February14th

    February14th

    Tham gia ngày:
    20/2/06
    Bài viết:
    2,976
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Độ nhạy sáng của film - ISO/ASA:

    Có 2 chuẩn chỉ độ nhạy sáng là ISO (quốc tế) và ASA (của hộ nhiếp ảnh Mỹ) để chỉ độ nhạy sáng của film. Trong 2 chuẩn này thì ISO được phổ biến hơn mặc dù có thể convert qua lại dễ dàng vì sử dụng ISO dễ tính toán hơn. Đơn giản và dễ nhớ ISO200 sẽ cho nhạy sáng gấp đôi ISO100 và gấp 4 lần ISO50.
    Các mức ISO chính 50 100 200 400 800 1600. Các bước này cũng chênh nhau 1 stop ánh sáng. Có nghĩa là mức sau nhạy sáng gấp 2 lần mức trước và bằng 1/2 mức sau.

    Độ nhạy sáng của film được quyết định do thành phần hóa học và kích thước của hạt bạc trên film. Do đó với film có ISO cao thì các hạt film - grain - trên ảnh sẽ lớn hơn. Trên digital thì ISO cao sẽ dẫn đến noise trong ảnh. Cần lưu ý là noise không hoàn toàn giống grain. Grain đôi khi được chọn để thể hiện ý đồ của người chụp nhưng noise thì luôn được các hãng máy ảnh cố gắng tránh.

    Đối với máy ảnh số thì mỗi hãng có 1 công nghệ xử lý noise khác nhau nên mức noise trên cùng 1 ISO là khác nhau. Tuy nhiên, có 1 rule of thumb đó là trên cùng 1 công nghệ thì kích thước sensor càng lớn và mật độ pixel càng nhỏ càng làm giảm noise.


    Mối quan hệ giữa A T ISO:

    Ta có thể thấy các yếu tố A T ISO đều có thể thay đổi được lượng sáng bức ảnh sẽ nhận được. Ta có thể tăng 1 stop ở 1 trong 3 yếu tố này rồi giảm 1 stop ở 1 yếu tố khác để vẫn thu được lượng sáng tương đương. VD 1 bức ảnh đúng sáng ở ISO200, f/5.6, 1/200s. Bức ảnh này vẫn đúng sáng nếu chụp ở:
    + ISO100, f/4, 1/200s
    + ISO200, f/4, 1/400s
    + ISO100, f/5.6, 1/100s.
    + ISO50, f/4, 1/100s
    v.v.

    (nói thêm 1 chút: đối với film thì exposure không phải lúc nào cũng là linear mà phụ thuộc vào tính chất film, đối với long exposure đôi khi việc bù thêm +1/2 +2/3 stop là cần thiết :D)


    Trên các máy đo sáng ngày xưa, giá trị exposure đo được ở đơn vị Ev (exposure value). Từ đơn vị Ev này sẽ có 1 bảng quy đổi ra các giá trị A T ISO tương ứng.

    [​IMG]
    src: http://www.philmalpas.com

    Chẳng hạn ta muốn 1 bức ảnh nhận được lượng sáng Ev = 12, ta có thể có đến hàng chục kết hợp giữa các setting trên máy ảnh. Sáng tạo của người chụp cũng là ở chỗ này. Và việc thay đổi các yếu tố A T ISO như vậy ảnh hưởng đến bức ảnh thế nào?

    Ảnh hưởng của A T ISO
    Aperture: ngoài việc kiếm soát lưởng ánh sáng vào ảnh, Aperture ảnh hưởng đến độ sâu của trường nét trong ảnh (DOF). Aperture càng nhỏ thì vùng nét càng sâu và ngược lại. Do đó có 1 rule of thumb khác là: khi chụp chân dung, aperture lớn sẽ giúp background mờ làm chân dung nổi bật. Ngược lại, khi chụp landscape thì aperture nhỏ sẽ giúp mọi chi tiết trong ảnh (background, foreground) đều nét.


    src: www.photoaficionado.com

    Time: thời gian mở cửa sập ảnh hưởng đến chuyển động trong ảnh. Ở 1/500s chiếc ô tô sẽ gần như không chuyển động trên đường, nhưng ở 1/2s, ta có thể cảm giác được chuyển động của ô tô do motion blur.
    Ngoài ra cũng cần lưu ý time để tránh handshake. Rule of thumb khác là không nên cầm máy chụp (không có tripod) ở tốc độ thấp hơn 1/focal length. VD: chụp bằng lens 50mm thì không nên handheld ở tốc độ chậm hơn 1/50s. Trong trường hợp lens hay máy có hỗ trợ chống rung thì tùy theo hệ thống chống rung hỗ trợ bao nhiêu exposure stop mà tốc độ thấp nhất có thể cầm máy thay đổi. Có 1 số technique để có thể handheld vượt qua giới hạn khuyến cáo ở trên, mọi người có thể bổ sung sau.

    [​IMG]
    src: http://www.idigitalphoto.com

    ISO: như đã nói ở trên, ISO ảnh hưởng đến grain của ảnh film và noise của ảnh số.

    [​IMG]

    src: http://www.cameratown.com/

    (bài viết được tổng hợp từ nhiều nguồn, nguồn Internet)
    http://forum.vncnus.net/viewtopic.php?f=72&t=20644
    Srono- VNCNUS
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/3/10
  4. February14th

    February14th

    Tham gia ngày:
    20/2/06
    Bài viết:
    2,976
    Nơi ở:
    Hà Nội
    White balance

    Để nói về white balance thì trước hết phải hiểu WB là gì, tại sao WB quan trọng đối với 1 bức ảnh nói chung, cuối cùng là 1 số cách để chỉnh WB đúng trong các điều kiện ánh sáng khác nhau.

    Các nguồn sáng khác nhau thì sẽ cho các ánh sáng có màu khác nhau. Tuy nhiên mắt người sẽ tự điều chỉnh để thích hợp với các nguồn sáng khác nhau nên không thể nhận biết được sự thay đổi về màu sắc của nguồn sáng. Máy ảnh thì không nhận biết được sự thay đổi này nên khi chụp, nếu không chỉnh WB thì ảnh sẽ bị sai màu. Một ví dụ tại sao WB quan trọng:

    Ảnh sai WB:

    [​IMG]

    Ảnh đúng WB:

    [​IMG]

    Ảnh này Xuki chụp RAW, vì lúc phải chụp nhanh kẻo xe chạy qua nên không có thời gian chỉnh WB trên máy, chỉnh qua RAW chụp rồi chỉnh trên máy tính sau.

    Nói đơn giản thì 1 ảnh có WB đúng thì những điểm nhìn ở ngoài màu trắng, khi chụp lên cũng sẽ ra màu trắng. Như ví dụ ở trên thì cái vạch đường đúng ra phải màu trắng, trong cái ảnh sai WB thì nó là màu cam. Và khi chỉnh lại thì Xuki dựa vào những điểm màu trắng trên hình để chỉnh cho chính xác (thực ra là xài picker chọn 1 điểm màu trắng).

    Đối với máy film thì để chỉnh WB phải dùng các loại filter khác nhau hoặc dùng film khác nhau cho từng điều kiện ánh sáng khác nhau (thank anh Srono). Đối với máy digital thì sensor có thể tự điều chỉnh mà không cần filter. Trên các máy Point-and-shot có chức năng manual và DSLR đều có setting chỉnh WB. Thường thì sẽ có các preset trên máy, ví dụ Auto (tự động), Tungsten, Daylight, Cloudy, Flash, Shade, Fluorescent và Custom (chỉ có 1 số máy có).

    Với Auto thì máy sẽ tự tính WB, và thường thì không chính xác lắm. Với custom thì có thể chỉnh theo Kelvin degree, từ khoảng 1.5k - 10k (cái này cũng tùy máy). Mọi người có thể tham khảo bảng sau đây nếu chỉnh bằng custom:

    [​IMG]

    Ảnh: neon-lighting.com

    Ngoài ra nếu chụp trong điều kiện ánh sáng thay đổi liên tục hoặc cần chụp nhanh, không có thời gian chỉnh WB thì có thể chụp RAW, sau đó đem về máy chỉnh lại WB. Nếu chụp bằng JPEG thì máy sẽ tự chỉnh WB, ảnh đã mất 1 số thông tin, sau đó nếu chỉnh WB lại bằng máy tính thì màu sẽ không chính xác 100% nữa. Cho nên chụp bằng JPEG thì nên chỉnh đúng/gần đúng WB rồi chụp.

    (bài viết được tổng hợp từ nhiều nguồn, nguồn Internet)
    http://forum.vncnus.net/viewtopic.php?f=72&t=20644
    xuki- VNCNUS
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/3/10
  5. February14th

    February14th

    Tham gia ngày:
    20/2/06
    Bài viết:
    2,976
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Nếu như vẽ tranh là hoạ sỹ đưa dần vào khung toan trắng những nét cọ để tạo ra nội dung và bố cục của nó thì trong nhiếp ảnh, người ta làm công việc ngược lại. Trong bố cục ảnh, có 6 chuẩn mực để bạn dựa vào, nhưng để các tấm ảnh có hồn, thu hút và tránh nhàm chán rất cần tới sự vận dụng linh hoạt.



    Cả hội hoạ và nhiếp ảnh đều là nghệ thuật truyền tải thông tin thị giác và chịu sự chi phối của những nguyên lý căn bản về cảm nhận thực thể bằng ánh sáng. Nhưng nếu hội hoạ là nghệ thuật tổng hợp thì nhiếp ảnh là kỹ thuật phân tích. Khi vẽ tranh, hoạ sỹ đưa dần vào khung toan trắng những nét cọ để tạo ra nội dung và bố cục của nó. Nhưng trong nhiếp ảnh, người ta làm công việc ngược lại…

    Với bối cảnh thực có sẵn nội dung và bố cục, tay máy phải thay đổi góc nhìn, sử dụng ống kính wide hay tele, xoay trở khuôn hình để chọn lọc những yếu tố xây dựng lên bức ảnh. Tuy nhiên, dù là thêm vào hay bớt đi các mảng khối trong khuôn hình, cả hội hoạ và nhiếp ảnh đều hướng tới cách xếp đặt hiệu quả nhất để thể hiện nội dung các tác phẩm. Trong kết quả cuối cùng, ở mức độ nào đó, cả tranh vẽ và ảnh chụp đều được đánh giá bởi một chuẩn mực về bố cục.

    Khi đánh giá một bức ảnh, người ta xem xét nó trên những yếu tố căn bản về nội dung, màu sắc, trạng thái và hiệu ứng quang học. Nếu bố cục được nhấn mạnh trong khi các yếu tố khác bị khoả mờ, bản thân nó có thể là chủ đề của nhiếp ảnh.

    Hầu hết các yếu tố căn bản này giúp truyền tải thông tin thị giác như điểm và đường nét, hình dạng, màu sắc, chất liệu bề mặt và độ tương phản đều liên quan đến bố cục bức ảnh. Người chụp ảnh dựa trên những nguyên tắc này để phát triển kỹ năng sắp xếp các đối tượng trong khuôn hình.

    Tiết tấu tạo bởi hiệu ứng quang học.

    1 - Tìm ra tiết tấu hay mô thức xếp đặt trong bối cảnh


    Đó là kỹ thuật rút ra logic về vị trí, sự xếp đặt các vật thể trong khuôn hình, chọn được góc đặt máy tốt nhất phản ánh tiết tất và mô thức trên các vật thể. Kỹ thuật này rất phổ dụng đối với ảnh kiến trúc, giao thông, dây chuyền sản xuất… Việc phát hiện logic xếp đặt trong một bối cảnh lớn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng quan sát và xâu chuỗi của tay máy. Tuy nhiên, việc lạm dụng tiết tấu, thiếu suy ngẫm và phân tích sẽ dẫn đến những bức ảnh dập khuôn nhàm chán. Việc áp dụng hiệu quả bố cục này phải đi liền với các hiệu ứng ánh sáng, tạo bóng và góc đặt máy khác thường.

    Ví dụ, một hàng cột tròn đều tăm tắp và sáng rõ trong nắng trưa sẽ không thể đẹp bằng bức ảnh chúng đứng trong ánh sáng xiên thấp hơi lệch phương ống kính. Nhờ nắng tạt ngang, bóng cột sẽ đổ dài tạo một hàng cột nữa nằm dưới đất, thân của chúng sẽ được “vê” tròn lẳn vì hiệu ứng chuyển sáng tối. Nếu đặt máy thật thấp dưới chân hàng cột với ống kính góc rộng, đầu của chúng sẽ sẽ chạm vào nhau và lao vút lên trời, rất thú vị. Nhiều khi các tiết tấu lại xuất hiện cùng hiệu ứng quang học và chỉ tác động vào ống kính ở một góc nhìn nhất định, vấn đề là phải tìm tòi và sáng tạo.

    Phản ánh chiều sâu không gian.

    2 -Thể hiện được kích cỡ vật thể hoặc khoảng cách


    Kỹ thuật này giúp người xem ảnh hình dung kích thước của vật thể trong khuôn hình. Sử dụng tốt phép so sánh chênh lệch về kích thước có thể nêu bật được độ lớn của đối tượng trong bức ảnh.

    Ví dụ, nếu muốn minh hoạ độ lớn của một con voi nên đặt chú sáo bé như hạt gạo trên lưng nó. Ngược lại, khi chụp macro một bông hoa nhỏ, người ta nhấn mạnh mức phóng đại của bức ảnh bằng một chú kiến vàng lớn như con ong chúa. Vật thể làm mẫu so sánh nên thuộc loại hình ảnh quen thuộc, dễ hình dung kích thước như con người, ôtô, que diêm, cái bút… Có thể dễ dàng nhận thấy hiệu quả của thủ pháp so sánh khi xem những thước phim hoạt hình kinh điển về người khổng lồ, tí hon. Tay máy khi đứng trước bối cảnh hoành tráng hay vật thể quá lớn, anh ta dễ bị ngợp tới mức quên mất là cần một vật thể so sánh. Kết quả là bức ảnh sẽ còn cảm xúc mà anh ta đã trải nghiệm, mọi thứ sẽ chỉ giống như cảnh trên bàn hay những món đồ chơi của trẻ con.

    Điểm nhấn màu.

    3 - Tạo sức hút cho điểm nhấn của bức ảnh


    Vùng trọng tâm hay điểm nhấn của bức ảnh được thể hiện bằng kỹ thuật tạo độ tương phản, hay đường dẫn hướng. Theo nguyên lý thị giác thì điểm tương phản nhất trong khuôn hình sẽ thu hút thị giác, vùng xẫm sẽ nặng và hút mắt hơn khoảng n*** trắng. Mặt khác, ánh mắt người xem cũng sẽ di chuyển theo hướng chiếu của tia sáng trong khuôn hình, tức là đi từ chỗ nhạt nhất đến chỗ đậm nhất. Những đường cong, nét chéo kết thúc tại điểm nhấn sẽ dẫn ánh mắt người xem đến đó. Tuy nhiên, chúng cũng có thể gây hậu quả phân tán và khó hiểu nếu chỉ lệch hướng tới chủ đề chính.

    Trong bố cục cổ điển, điểm mạnh của bức ảnh thường được đặt ở toạ độ giao nhau của đường 1/3 dọc và 1/3 ngang bức ảnh (gần 4 góc khuôn hình). Cách sắp xếp này đặc biệt phù hợp với cỡ phim 35 mm. Nhiếp ảnh hiện đại không bị lệ thuộc vào những công thức cổ điển. Thậm chí, những tay máy cách tân còn cố tính đặt chủ đề vào những vị trí oái oăm và điều đó lại gây sự chú ý và ấn tượng về bức ảnh. Thực ra, những tay máy này phải rất hiểu về Tỷ Lệ Vàng để có thể làm điều ngược lại và tạo nên hiệu quả thú vị. Giá trị cao nhất mà nhiếp ảnh hiện đại nhắm tới không hoàn toàn là cái đẹp, mà là cảm xúc và ấn tượng.

    Bố cục đường dẫn.

    4 - Đặc tính về cân bằng và trạng thái


    Sự cân bằng trong bức ảnh sẽ quyết định trạng thái tĩnh hoặc động của nó. Nếu thủ pháp sử dụng đường chân trời nằm ngang chính giữa bức ảnh nhằm tạo nên cảm xúc tĩnh lặng, thì khi đặt nghiêng, đưa lên cao hay hạ xuống thấp sẽ cho hiệu quả động. Bức ảnh nhiều trời ít đất thì tạo cảm xúc nhẹ nhõm thanh cao. Còn khi đảo tỷ lệ này, những hiệu quả sẽ ngược lại. Mắt người xem có một đặc tính là bị thu hút theo hướng chuyển động của chủ đề. Do vậy, trong bố cục cổ điển các chuyển động phải hướng vào trong bức ảnh. Nhưng các nhiếp ảnh gia hiện đại lại không muốn người xem thấy ngay mọi thứ, họ đòi hỏi sự quan sát và suy ngẫm về thông điệp của bức ảnh, nên họ có thể không tuân thủ quy tắc này.

    Sự cân bằng cũng bị chi phối bởi màu sắc, một chấm vàng tươi bên phải sẽ nặng bằng cả một mảng nhạt trắng. Cách lấy một diện tích nhỏ có sức hút mạnh để tạo ra sự cân bằng với một mảng lớn nhẹ nhõm hơn sẽ tạo ra trạng thái cân bằng động - một bố cục khá phổ biến trong nhiếp ảnh.



    5 - Chụm vào tản ra

    Việc sử dụng hình tròn hay những đường cong kín tạo nên sức hút khá mạnh và gây hiệu ứng hợp nhất - phương pháp thể hiện tốt những hiện thực đơn lẻ như bông hoa, mạng nhện… Khi được sử dụng hợp lý, bố cục này sẽ hướng sự chú ý vào giữa tâm của nó. Mục tiêu hợp nhất vào điểm mạnh còn có thể được thực hiện bởi nhiều đường dẫn hướng tới đối tượng chính (ví dụ: nút giao thông). Không cần phải là những nét dẫn thực thể, ánh mắt tập trung của các sinh vật trong khuôn hình cũng sẽ định hướng sự quan sát của người xem ảnh.

    Thủ pháp bố cục phân tán thường được dùng để diễn giải những nội dung trừu tượng như: giận dỗi, làm ngơ, đa dạng, hỗn loạn… Đi liền với kỹ thuật này là ống kính góc rộng, bao quát nhiều cụm đối tượng mạnh tương đương. Ví dụ, bức hình chụp từ trên xuống một trung tâm giao dịch chứng khoán, hay một cái chợ ngoài trời đông đúc.

    Tận dụng nét lượn chữ S.

    6 - Phản ánh chiều sâu không gian


    Là một thủ pháp rất hiệu quả để khắc phụ bản chất phẳng dẹt của bức ảnh. Một bố cục khéo léo có thể làm khuôn hình trở nên sâu hút, cũng có thể khiến chủ đề nổi bật hình khối trên một bối cảnh mờ nhoà. Nhiều khi một bức ảnh nét suốt từ cận cảnh tới vô cự không tạo cảm giác sâu bằng bức macro nét cạn, chính phần vật thể bị mờ lại tạo cảm giác về hình khối và chiều sâu không gian. Một bức ảnh bố cục tốt có thể bao gồm nhiều lớn không gian với các tone màu và cường độ chiếu sáng khác nhau. Kỹ thuật phổ biến là sử dụng cận cảnh làm khuôn hình, nhưng nếu không tìm được những mẫu khung đặc biệt thú vị thì bức ảnh khó mà thoát ra khỏi sự nhàm chán.

    đọc trên sohoa (Theo Nghe Nhìn), có sắp xếp lại

    Những nguyên tắc bố cục cổ điển (Tỷ Lệ Vàng):


    - Đường chân trời ở 1/3 hoặc 2/3 chiều cao bức ảnh.
    - Mỗi khuôn hình chỉ có một điểm mạnh, điểm này không đặt giữa ảnh mà phải ở toạ độ 1/3 rộng x 1/3 cao.
    - Hướng ánh mắt người xem từ ngoài vào trong bức ảnh.
    - Tận dụng nét lượn chữ S nếu có trong bối cảnh.

    _____________

    Ai trong chúng ta cũng đều thích cái đẹp và hơn thế nữa chúng ta đều muốn mình tạo ra cái đẹp. Và một tác phẩm ưng ý, một tác phẩm đẹp là ước muốn không chỉ của các nhiếp ảnh gia mà của mọi người khi cầm máy ảnh để chụp ảnh.

    Để trở thành một nhiếp ảnh gia với các bức ảnh để đời quả lá khó, nhưng để có được những bức ảnh đẹp thì cũng không khó lắm nếu ta nắm được các nguyên tắc nhiếp ảnh cơ bản nhất.

    Xin giới thiệu với các bạn bố cục cơ bản trong nhiếp ảnh. Các nhiếp ảnh gia, nhà báo... trước khi có những tấm ảnh đẹp, để đời thì chắc chắn trong đầu họ cái bố cụ này đã nằm sẵn từ lúc nào.

    Mời bác bạn xem tấm hình sau:

    [​IMG]

    [​IMG]

    Quan sát hình trên ta thấy:
    Hai dòng kẻ dọc và ngang chia hình thành 3 phần bằng nhau và gặp nhau tại 4 điểm.
    Trong nhiếp ảnh ta gọi 4 đường đó là 4 đường mạnh và 4 điểm đó là 4 điểm mạnh. Hai đường nằm ngang còn gọi là hai đường chân trời.
    Trong khi chụp hình người chụp phải cố gắng đưa chủ đề cần chụp vào gần hoặc trùng các đường mạnh, điểm mạnh trên.
    Đây là bố cục căn bản nhất, bất cứ người chụp ảnh nào cũng cần phải ghi nhớ trong đầu để mỗi khi nhìn, ngắm chụp đều lôi ra để áp dụng.
    Và dĩ nhiên là trong cả hội họa, điện ảnh, kiến trúc thì đây cũng là bố cục cơ bản nhất.


    ví dụ:
    [​IMG]

    Ngoài ra ta còn gọi hai đường ngang là hai đường chân trời. Khi chụp ảnh phong cảnh có đường chân trời thì ta đặt đường chân trời nằm gần hoặc ngay tại hai đường trên tùy ý đồ thể hiện của ta.
    Ví dụ: Khi muốn thể hiện sự bao la của bầu trời, thì ta chọn đường dưới là đường chân trời.


    [​IMG]


    (bài viết được tổng hợp từ nhiều nguồn, nguồn Internet)
    theo tinhte- http://www.tinhte.com/threads/2983-Nhiếp-ảnh-cơ-bản-Bố-cục?p=12178#post12178
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/3/10
  6. Cáo♥

    Cáo♥ Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    11/10/09
    Bài viết:
    285
    Nơi ở:
    gaga.cow.vn
    -Kinh nghiệm chụp và xử lý ảnh số cho người nghiệp dư-


    Đôi lúc bạn hay thắc mắc sao hình lại tối thế này, nhòe nhoẹt thế kia. Dù không phải là thợ, bạn vẫn có thể có được những bức ảnh đẹp hơn với một chút hiểu biết thêm về nguyên lý và kỹ thuật.

    Mỗi một chiếc máy ảnh đều có menu cài đặt. Trước khi thực hiện các bước cài đặt, việc đầu tiên là chọn chế độ chụp. Thông thường những loại máy đời mới dù "xịn" hay không thì đều cần phải chọn kích cỡ và chất lượng ảnh. Có những loại máy dùng ký hiệu là các dấu sao, càng nhiều sao chất lượng hình càng đẹp. Còn lại các dòng máy khác hiển thị bằng chữ (S, M, L) hoặc số cỡ ảnh (pixel), số càng to sẽ cho ra tấm ảnh đẹp hơn, có thể in ảnh khổ lớn.

    Chỉnh ISO : Giống như khi chụp bằng máy ảnh truyền thống, bạn phải mua phim có đội nhậy phù hợp với điều kiện ánh sáng thì với máy ảnh số cũng vậy, bạn nên để ISO ( độ nhậy bắt sáng) làm sao vừa dễ chụp, vừa đẹp. Độ nhậy cao dễ dàng chụp trong điều kiện trời sẩm tối, đêm, hay trong nhà, nhưng sẽ gây hiện tượng rạn ảnh, vỡ hạt. Như vậy, bạn nên để ISO 200 cho trời nắng và 400 đối với trời sầm. Với 800 hoặc 1600 chỉ nên dùng trong trường hợp bất đắc dĩ hay về buổi đêm mà không phát đèn chớp.

    Trên nút điều khiển thường có 2 tới 3 chế độ lấy ánh sáng giúp bạn chọn theo ý muốn :

    Vị trí A (Aperture), không dùng đèn Flash: Cố định khẩu độ, tự động tốc độ. Bảng khẩu độ trên tất cả các máy có các con số f2.8, 4, 5.6, 8, 11, 16, 22 mm. Số càng cao thì cửa điều sáng đóng càng nhỏ sẽ cho độ nét ảnh càng sâu. Chẳng hạn khi bạn chụp một hàng dài người mà máy ảnh gần người đầu tiên nhất, máy ảnh đóng f22 mm, ảnh sẽ nét rất sâu từ người đầu tiên cho đến người cuối cùng (với điều kiện ống kính không zoom tiêu cự lớn hơn 50 mm). Nếu để f4 hoặc f2.8 mm thì ảnh chỉ nét được khoảng 1 đến 2 người đầu tiên.

    Tùy theo các con số trên mà độ nét nông, sâu cũng như lưu lượng ánh sáng vào ảnh thay đổi. Để chế độ A này khi chụp chỉ phù hợp với nguồn sáng mạnh, khoảng 8h sáng đến 6h chiều mùa hè (không áp dụng khi chụp trong nhà). Nếu bạn cố tình để chế độ này khi chụp ảnh trong nhà hoặc trong điều kiện ánh sáng yếu, tốc độ màn trập sẽ tự động hạ xuống gây nên hiện tượng rung tay, ảnh nhòe nét trừ phi camera được đặt lên chân máy hoặc vật cứng.



    [​IMG]
    Ảnh chụp trong nhà có đèn neon, không phát đèn chớp, hậu cảnh sáng đều với đối tượng chụp.


    [​IMG]
    Chụp dùng Flash, hậu cảnh tối nhìn không rõ chi tiết phía sau đối tượng.

    Vị trí S (Speed), không dùng Flash: Cố định tốc độ, tự động khẩu độ. Chế độ này các thợ ảnh chuyên nghiệp thường ít dùng vì rất khó chụp đối với máy ảnh số có độ nhạy ánh sáng cao. Các con số tốc độ trên máy thường là từ 2" (2 giây) đến 1/2000" (một phần 2000 giây). Để đảm bảo cho một tấm hình không bị mất nét khi chụp, ánh sáng ngoài trời không sầm sì, một người hoặc vật đang chuyển động hoặc di chuyển với tốc độ nhanh bạn nên để tốc độ từ 1/125'' cho đến 1/2000'' (số càng to thì tốc độ đóng mở màn trập càng nhanh, ánh sáng vào càng yếu). Không như camera du lịch, các dòng máy chuyên nghiệp tốc độ nhanh có thể lên tới 1/4000'', chậm là 32". Tuy nhiên tốc độ càng cao, độ nét sâu của hình ảnh càng giảm.

    Vị trí Auto (Automatic): Chế độ này tự động hoàn toàn cả tốc độ lẫn khẩu độ. Trong điều kiện ánh sáng yếu, máy sẽ tự động phát đèn Flash cho bạn đảm bảo một bức ảnh chuẩn sáng. Nhược điểm của chế độ này là ảnh chỉ sáng được những vị trí nào mà đèn với tới. Thông thường, những tấm ảnh dùng đèn flash, hậu cảnh bị tối trừ khi bạn chụp trong điều kiện trời thật sáng và nắng. Cái hay của chụp flash ngay cả khi có nắng là các điểm khất của mặt người được chụp như hốc mắt, hốc mũi, vùng cổ...không bị tối. Đèn flash sẽ làm cân bằng sáng trên toàn khuôn mặt.



    [​IMG]
    Có đèn Flash phả nhẹ, mặt người đẹp và hài hòa hơn, mắt không bị quầng tối.

    Hình ảnh được chụp từ các loại máy du lịch với đèn flash tự động có thể sẽ xấu hơn so với các thợ chuyên nghiệp bởi các đèn phát sáng tháo rời có chế độ Manual (chọn mức xả nhẹ, trung bình hoặc phát hết năng lượng). Trong bất kỳ tình trạng ánh sáng nào, các nhiếp ảnh gia sẽ dùng chế độ xả đèn hợp lý vừa đủ sáng mà lại không tối hậu cảnh, góc cạnh trên mặt hài hòa mà không bị bệt hay bị "lốp" sáng.

    Vị trí M (Manual): Chọn tốc độ, khẩu độ theo ý muốn. Để dùng được chức năng này đối với máy ảnh số ngay cả các phóng viên ảnh, thợ chuyên nghiệp cũng phải rất lúng túng khi sử dụng, có khi không ai dám dùng. Tăng một khẩu độ hay giảm một tốc độ chỉ cần chỉnh sai một con số tấm ảnh có thể thiếu sáng hoặc dư sáng đến mức tội nghiệp. Có khi phải chỉnh đổi tốc độ đến ba bốn lần mới chụp được tấm ảnh vừa sáng.



    Xử lý ảnh bằng Photoshop sau khi chụp


    Thông thường, sau khi chụp bằng chế độ tự động, đổ ảnh từ card vào máy tính sẽ thấy ảnh hơi tối đen. Bạn phải cần đến một chiếc máy tính có cài sẵn phần mềm Photoshop để xử lý chúng. Chỉnh sửa những tấm hình đó sao cho đẹp mỗi người một thủ thuật riêng. Sau đây là một bí quyết nhỏ cho bạn tham khảo.

    Các thao tác chỉnh sửa sau khi mở một tấm hình vừa chụp :
    Open\Image\Adjustment\Curves

    Ở bảng Curves, bạn có thể kéo dây căng chéo sao cho vừa độ sáng ảnh hoặc đánh số vào phần "Input", "Output".

    Image\Adjustment\Autocolor . Đây là phần tự động chỉnh màu phù hợp. Phần này thao tác xong mà bạn thấy màu xấu hơn có nghĩa là màu đã chuẩn bạn hãy bấm Ctr + Z hoãn lại.

    Chưa xong, bạn cần chỉnh contrast bằng cách : Image\Adjustment\Brightness/Contrast. Kéo thanh contrast lên khoảng 10 đến 12, nếu chưa thấy ổn có thể tăng thêm chút nữa. Bạn sẽ thấy độ tương phản cao hơn, màu đẹp hơn.

    Image\Adjustment\Color Balance. Phương pháp chỉnh màu dư trên ảnh. Nếu hình thiên về màu đỏ, bạn hãy tăng màu xanh hoặc giảm chính màu đó đi.

    Image\Adjustment\Saturation. Ở bảng công cụ này bạn kéo thanh Saturation lên hoặc đánh một con số hợp lý mà không nhiều quá. Lúc này màu sẽ tươi hơn, rực rỡ hơn, bạn đã có một tấm ảnh tuyệt hảo.

    Image\Adjustment\Selective Color. Cuối cùng bạn chỉnh những màu riêng biệt theo ý muốn. Cần triệt tiêu hay thêm màu gì click vào màu đó rồi chỉnh. Bạn sẽ được tấm hình như ý.
    (Theo Sohoa.NET)
     
  7. dante3790

    dante3790 C O N T R A Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    15/6/09
    Bài viết:
    1,785
    Nơi ở:
    Hải Phòng
    Chia sẻ kinh nghiệm phơi đêm​


    Chụp ảnh buổi đêm cho ra nững tấm hình tuyệt vời nằm ngoài những gì mà chúng ta có thể thấy bằng mắt thường. Tuy nhiên kỹ năng chụp ảnh đêm lại rất đơn giản bạn chỉ cần đáp ứng được các điều kiện căn bản là có thể có được những tấm hình như tấm bên dưới đây.

    Chân máy (Tripod) là điều kiện bắt buộc khi bạn muốn chụp ảnh đêm. Tuy nhiên bạn cũng có thẻ dùng bàn, ghế, xe... miễn là có thể giúp máy bạn đúng im trong lúc chụp. Ngoài ra chụp hẹn giờ cũng là cách để giúp giảm thiểu tối đa hiện tượng máy bị rung.

    [​IMG]

    Cấu hình chụp: ISO 200, Tốc Độ 30", Khẩu Độ 13, trên chân máy​

    Để bức ảnh có chiều sâu thì ta nên chọn cảnh có chủ thể phía trước và phía sau cách xa nhau. Trong tấm hình dưới đây con thuyền nhỏ là chủ thể gần còn thành phố là chủ thể xa. Dòng sông với anh sáng từ thành phố chiếu qua tạo thành các vệt màu hết sức ấn tượng.

    Giải thích thêm về khái niệm phơi đêm: Phơi đêm là việc mở ống kính ra cho hình ảnh đi vào phim, cảm biến trong một thời gian dài hơn khi chụp bình thường. Thời gian phơi càng lâu thì hiệu ứng trên tấm hình càng đẹp. Để có thể phơi mà vẫn đảm bảo đúng sáng thì ta phải đóng khẩu độ và giảm ISO dĩ nhiên là ta không thể cấm máy trong thời gian dài mà không rung nên chân máy là điều không thể thiếu.

    Ở tấm ảnh trên mặt sông nhìn lặng như tờ là do thời gian phơi là 30"(30 giây) nên mọi gợn sóng coi như không. Tương tự bức ảnh dưới ta thấy các vệt sáng chạy dài mà với mắt thường ta không thể thấy được, các vệt sáng đó chính là các chiếc xe, do chụp lâu nên hành trình của các hiếc xe đều được ghi lên trên cảm biến.

    [​IMG]
    Cấu hình chụp: ISO 200, Tốc Độ 30", Khẩu Độ 14​

    Thao tác thực tế cần chú ý:
    *
    • Đưa máy về chế độ chụp tay M hoặc S
    • * Tắt ISO tự động
    • * Điều chỉnh tốc độ và khẩu độ mong muốn. Ở chế độ S(*) ta chọn tốc độ mong muốn, nếu chụp đường buổi tối hay chụp thành phố với dòng sông thì ta nên chọn thời gian chụp trên 20", máy sẽ đưa ra khẩu độ tương ứng.
    • * Chọn khung ảnh đẹp: dùng mắt nhìn và chọn cảnh sẽ được chụp.
    • * Gắn máy lên chân và đặt vào vị trí vừa chọn được.
    • * Chọn chế độ chụp hẹn giờ
    • * Sẽ hơi lâu từ lúc bấm máy đến lúc máy xử lý xong: Vì thời gian chụp lâu và máy phải ghi nhiền thông tin vào thẻ nên ta sẽ có cảm giác lâu để đến khi máy xử lý xong hình để ta có thể xem.


    P/S : hãy kiên trì khi chụp những bức hình này và cố gắng để cho máy rung là ít nhất ( dùng mọi khả năng có thể ). và chúc mọi người có những bức hình đẹp​
     
  8. February14th

    February14th

    Tham gia ngày:
    20/2/06
    Bài viết:
    2,976
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Cách đọc và hiểu thông số lens

    Ví dụ 1 lens có thông số như sau:

    Trong bài này Xuki chỉ muốn nói về focal length, aperture, zoom/prime lens. Các thông số còn lại chỉ là công nghệ mới chứ không ảnh hưởng nhiều tới characteristic của lens.

    1. Focal length - (Tiêu cự):

    Là khoảng cách từ sensor/film tới lens, nếu lens chỉ bao gồm 1 thấu kính. Nếu đúng theo lý thuyết thì lens 85mm sẽ phải dài khoảng 85mm - khoảng cách từ mount tới máy. Tuy nhiên độ dài thực tế của lens khác, vì 1 lens gồm nhiều thấu kính ghép lại, hoạt động như 1 thấu kính duy nhất cách sensor/film 85mm.

    Focal length quyết định góc nhìn (angle of view) của ảnh, do đó quyết định ảnh sẽ được phóng lớn chừng nào. Để dễ hiểu:

    [​IMG]

    Ảnh: www.cambridgeincolour.com

    Có thể thấy focal length ngắn thì ảnh bị thu nhỏ lại, focal length dài thì ảnh được phóng to ra.

    2. Aperture - (Khẩu độ):

    Aperture trên lens thường được ghi dạng f/1.4, f/2.8, f/3.5-5.6.

    f/1.4 nghĩa là maximum aperture đối với lens đó là 1.4.

    f/3.5-5.6 áp dụng với zoom lens, ở focal length ngắn nhất sẽ có maximum aperture 3.5, ở focal length dài nhất chỉ có maximum aperture 5.6 thôi.

    Vậy các số f/1.4, f/2.8, f/4 nghĩa là gì? f = focal length. Ví dụ lens 85mm f/1.4 @ f/1.4 nghĩ là đường kính "lỗ nhận sáng" là 85/1.4 = 60 (mm). Cùng 1 lens 85mm đó, chuyển sang f/2.8 thì đường kính sẽ giảm còn 30(mm).

    Để hiểu hơn về aperture và f-stop thì có thể đọc bài của anh Srono:

    http://forum.vncnus.net/viewtopic.php?p=263005#263005

    3. Prime lens vs. zoom lens (Ống kính 1 tiêu cự vs ống kính nhiều tiêu cự):

    Zoom lens là lens có thể thay đổi focal length, ví dụ 18-55mm. Prime lens thì chỉ có 1 giá trị focal length duy nhất, ví dụ 85mm.

    Ưu điểm và nhược điểm của zoom lens:

    a. Ưu điểm:

    Có thể thay đổi được focal length. Thay đổi focal length sẽ thay đổi góc nhìn -> composition, perspective của bức ảnh sẽ khác. Nói tóm lại là flexible.

    b. Nhược điểm:

    - Chất lượng ảnh (sharpness, contrast,...) không tốt bằng prime lens. Tuy nhiên với các lens "high class" hiện nay, chất lượng ảnh khó có thể phân biệt nếu xem ở size vừa phải.

    - Maximum aperture trên zoom lens bị giới hạn, thường chỉ mở được tới 2.8 với các lens high class.

    - In general thì đắt hơn prime lens.

    Ưu điểm và nhược điểm của prime lens:

    a. Ưu điểm:

    - Rẻ.

    - Chất lượng ảnh tốt.

    - Nhẹ hơn zoom lens cùng focal length.

    - Maximum aperture có thể tới 0.95 - 1.0 (tùy lens) -> thích hợp cho chụp lúc thiếu sáng và lúc cần depth of field mỏng.

    b. Nhược điểm:

    - Không zoom được, mốn thay đổi góc nhìn thì photographer phải thay đổi vị trí.

    (bài viết được tổng hợp từ nhiều nguồn, nguồn Internet, có chỉnh sửa cho phù hợp với anh em Gvn)
    http://forum.vncnus.net/viewtopic.php?f=72&t=20644
    xuki- VNCNUS
     
  9. uh_arch

    uh_arch Mario & Luigi

    Tham gia ngày:
    30/7/02
    Bài viết:
    830
    Chào mừng box mới thành lập, mình xin đóng góp một bài dịch về thể loại Ảnh đời thường aka Nhiếp ảnh đường phố (Street photography). Thể loại này rất thích hợp cho cả các bạn cũ hay mới làm quen với nhiếp ảnh vì ko đòi hỏi "đồ nghề" xịn.
    Bài viết gốc của thành viên flumpie trên Deviantart từ 2005 tuy nhiên tác giả đã inactive từ 2006. Mình sẽ cố gắng dịch sát với ý tác giả nhất có thể.


    Nhiếp ảnh đường phố (Street photography) là gì?

    Nhiếp ảnh đường phố không chỉ đơn giản là chụp ảnh những con phố. Thuật ngữ “nhiếp ảnh đường phố” khiến nhiều người nhầm lẫn, tuy nhiên để mô tả nó có thể dùng 2 thuật ngữ: “khoảnh khắc” và “xã hội”

    “Nhiếp ảnh đường phố chỉ đơn giản là hình thức nhiếp ảnh về xã hội , chia sẻ khoảnh khắc, môi trường và lịch sử. Đó là những bức ảnh về con người trong môi trường sống xung quanh (theo như lời một người bạn tôi)”

    Những nhiếp ảnh gia đường phố khác nhau tập trung vào những điều khác nhau. Có người chộp những khoảnh khắc vui nhộn, có người chụp con người, có người lưu giữ cuộc sống thường nhật, có người lại nắm bắt những mảng tối của xã hội hoặc ngược lại, đi săn tìm những tia hy vọng ở một thành phố nhàm chán nào đó,… bạn có thể chụp rất nhiều thứ theo ý bạn. Đa số nhiếp ảnh gia đường phố thích dùng sự hóm hỉnh và dí dỏm trong ảnh của mình để chia sẻ cách nhìn của bản thân về xã hội, chia sẻ những hơi thở của cuộc sống, chia sẻ tâm trạng. Một vài người chụp những hình ảnh thực tế không sắp đặt, một vài người có sắp đặt hoặc có người thực hiện cả hai.

    Tại sao tôi nên quan tâm đến nhiếp ảnh đường phố?

    Về mặt kỹ thuật, nhiếp ảnh đường phố là cơ hội để rèn luyện con mắt nhiếp ảnh của bạn, sự làm chủ được camera của mình, kỹ năng bố cục nhanh chóng, sự nhạy bén để chộp được những tình huống và khoảnh khắc. Những khoảnh khắc xuất hiện và biến mất chỉ trong tích tắc, nhiệm vụ của nhiếp ảnh gia đường phố là chộp được “khoảnh khắc quyết định” (trích lời Henri Cartier-Besson, một nhiếp ảnh gia đường phố nổi tiếng). Những kỹ năng đó sẽ rất có ích trong các loại hình nhiếp ảnh khác.
    Một lý do khác là nó rất thú vị, bạn học được rất nhiều từ thành phố nơi bạn sống, bạn học được nhiều điều về con người, gặp gỡ những người có thể thay đổi cuộc sống của bạn hoặc học được cách bạn tiếp cận cuộc sống.
    Nhưng đừng cho rằng bạn sẽ giàu có từ nhiếp ảnh đường phố, hoặc thậm chí kiếm sống từ loại hình này (Đoạn này tác giả viết rất cực đoan nên mình sẽ không dịch nguyên bản và chỉ nêu ý). Những bức ảnh của bạn sẽ ít được quan tâm hơn các thể loại khác, ít được mọi người yêu thích hơn. Nhiếp ảnh đường phố là loại hình bạn tham gia chỉ vì sở thích muốn lưu giữ hình ảnh về cách chúng ta sống, và sẽ không được nhiều người coi trọng dù bạn là dân chuyên nghiệp hay nghiệp dư. Tuy nhiên, nếu một bức ảnh đường phố thật sự tốt sẽ được người ta biết đến và coi trọng hơn rất nhiều so với các thể loại nhiếp ảnh khác.
    Và điều quan trọng nhất của nhiếp ảnh đường phố là xây dựng cho bạn sự tự tin khi chụp ảnh những người xa lạ. Điều này sẽ rất có ích cho bạn dù ở đâu hay làm gì.

    (to be continued)

    Bài sau:
    Tôi cần những gì để chụp ảnh đường phố?
    Những điều phiền toái bạn có thể gặp khi chụp ảnh đường phố


    Một vài hình ảnh về Street photography trên Deviantart

    Three generation by Chris_Lamprianidis
    [​IMG]

    At the cold light of day by whaeah
    [​IMG]

    Safe Haven by bQw
    [​IMG]

    Ruuuuuuuuun by Sblourg
    [​IMG]
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này